Theo Dấu Chân Chúa: Chương 30
THEO DẤU CHÂN CHÚA
Chương 30
“Bây giờ, khi Đức Chúa Giê-xu nghe những điều này thì Ngài phán cùng người rằng: Ngươi vẫn còn thiếu một điều hãy bán tất cả của cải ngươi có và phân phát cho kẻ nghèo thì ngươi sẽ có của cải ở trên trời, bấy giờ hãy đến mà theo Ta!”
Mục sư Henry đọc lời Chúa, mở đầu cho buổi nói chuyện của buổi họp. Ông làm chứng về các việc mà con cái Chúa ở Raymond đã làm được khi thực hiện sự hứa nguyện với Đấng Christ. Hầu hết những người có mặt trong buổi họp hôm nay đều đã được nghe ít nhiều về Chúa Giê-xu. Họ vẫn còn tin vào tình yêu của Ngài nhưng họ lại cay đắng về các hình thức của chủ nghĩa giáo điều Cơ-đốc trong hệ thống Giáo hội. Khi nghe Mục sư Henry nói về Chúa Giê-xu và công việc của Ngài, họ tỏ ra thích thú và đức tin của họ có dịp được khơi dậy. Henry nhắc lại một cách chậm rãi rõ ràng câu hỏi làm tiền đề:
– Thưa các bạn! “Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” khi Ngài ở vị trí của mỗi chúng ta!
Mọi người đều tập trung nhìn về Henry với sự háo hức, chờ đợi câu giải đáp, mà đáng lý ra chính họ phải trả lời lấy.
Henry tiếp lời:
– Chúa Giê-xu đã hi sinh tính mạng Ngài cho chúng ta. Ngài không hề ích kỷ với ai. Thế nhưng, chúng ta lại sống quá ích kỷ đối với Ngài. Nếu chúng ta bước theo chân Ngài một cách dạn dĩ, bất chấp hậu quả ra sao, thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một đời sống mới có ý nghĩa.
Khi Henry ngưng lời và ngồi xuống, có rất nhiều cánh tay đưa cao lên xin ý kiến.
Mục sư Edward đứng lên ổn định trật tự và hỏi lớn:
– Nếu có anh em nào thắc mắc, hoặc muốn nêu lên cảm nghĩ của mình thì cứ mạnh dạn đứng lên trình bày.
Lập tức, một người đàn ông ngồi gần chính giữa phòng đứng lên:
– Tôi xin phép được có ý kiến, tôi nghe Mục sư Henry nói đến số phận một kẻ lang thang chết ở nhà ông và bùng nổ phong trào thực hiện sự hứa nguyện với Chúa Giê-xu ở Raymond. Tôi có biết lai lịch kẻ lang thang quá cố đó. Anh ta tên là Jack Manning. Vâng! Tên là Jack Manning! Trong hai năm liền, tôi làm ca kế tiếp ca của anh ta trong một xưởng in tại Pheladelphia. Jack là một người bạn tốt. Đã có lần, tôi gặp hoàn cảnh khốn khó tưởng như chết mất, anh ấy đã kịp cho tôi mượn năm đô-la, tôi cũng chưa có dịp trả lại số tiền ấy cho anh ta. Jack bị đuổi việc vì nhà in đã có máy in hiện đại, không cần thợ in thủ công như anh ta nữa. Tội nghiệp cho Jack, anh đã phải lê chân đến New York trong sự đói rách, bần cùng vì thất nghiệp. Từ đó tôi không gặp lại anh ấy nữa. Kế đó không lâu, đến lượt tôi bị sa thải như Jack vì nhà in đã đem về mấy máy in li-nô tự động. Tôi sống một cách khốn khổ, vật lộn từng ngày với cuộc sống vì bị thất nghiệp dài hạn. Máy móc tối tân đem lại lợi nhuận tối đa cho các nhà kinh doanh, nhưng đồng thời, nó cũng đã đổ ụp bao tai họa lên đời sống những người thợ thủ công như tôi và Jack. Tôi và Jack cùng chung số phận thất nghiệp. Bị máy móc chiếm chỗ phải đi lang thang đói rách và bị xua đuổi. Nhưng tôi không ngờ thần chết đã vội cướp Jack đi mà lại để tôi còn đây giữa thế gian có bao nhiêu người xấu xa và ích kỷ tàn nhẫn. Tôi nghe nói nhiều về Chúa Giê-xu, về Hội thánh Ngài, và tình yêu của Ngài đối với những người khốn khổ như tôi. Thế nhưng khi tôi tìm đến sự che chở của Hội thánh Tin Lành gần nơi tôi cư ngụ nhất, tôi đã bị thất vọng ghê gớm. Những người ở Hội thánh ấy rất giàu sang, quý tộc nhưng cũng không kém phần ích kỷ và tàn nhẫn như những người vô thần ngoài xã hội. Rốt cuộc, tôi chẳng tìm thấy được ở đâu có một tình yêu thương thật cả. Xin quí mục sư có mặt hôm nay đừng giận, tôi nói thật suy nghĩ của tôi ra đấy!
– Đúng như vậy! Thật đúng như vậy đấy! Anh ấy nói đúng thực trạng xã hội và Giáo hội Cơ-đốc hiện nay!
Có nhiều tiếng la lớn và một giọng phụ nữ vang lên the thé ủng hộ cho ý kiến của người vừa phát biểu. Kế tiếp tiếng ồn ào nổi lên khắp cả phòng, nhiều người ý kiến, nhưng không dám đứng dậy.
Mục sư Edward vội đứng dậy xua tay bảo mọi người hãy giữ trật tự, im lặng. Tiếng ồn ngớt dần. Phía dưới cuối phòng, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi đưa tay xin phát biểu ý kiến. Ông Edward ra hiệu cho anh ta đứng dậy nói.
– Thưa quý vị! Đây là lần đầu tiên tôi được nói chuyện trước quý vị và cũng có thể là lần cuối. Tôi không hi vọng sẽ có gịp gặp lại quý vị lần thứ hai. Số phận của tôi có lẽ sắp được định đoạt bởi bệnh tật. Tôi bị thất nghiệp hơn hai tháng nay và phải đi lang thang từ thành phố này sang thành phố nọ nhưng vẫn không xin được việc làm. Tôi còn một vợ và hai con. Vợ con tôi cũng rất khốn khổ vì thiếu ăn.
Thưa mục sư! Có phải ông mới nói với mọi người rằng chúng ta sẽ sống theo khẩu hiệu “Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” và trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó trước khi hành động. Vậy, nếu Ngài là tôi, Ngài đang bị thất nghiệp như tôi hiện giờ thì Ngài sẽ làm gì nào? Không những tôi cần cái ăn để tồn tại cho chính bản thân tôi mà thôi, tôi còn phải có trách nhiệm với vợ và con của tôi nữa. Tôi phải sống và vợ con tôi cũng phải sống. Nhưng bằng cách nào để sống bây giờ? Chúa Giê-xu sẽ làm gì nếu Ngài là tôi? Ông đề cập đến câu hỏi đó khiến tôi hi vọng nên tôi phải hỏi.
Người đàn ông nói xong, ngồi xuống vài giây rồi mà Mục sư Henry vẫn chưa trả lời cho anh ta. Ông ngồi nhìn chăm người đàn ông vừa phát biểu ý kiến vừa cầu nguyện thầm trong lòng “Lạy Chúa! Xin Ngài trả lời thay cho con câu hỏi này. Đây là câu hỏi làm đổi thay cả một thời đại – người đàn ông này đang đứng gần bên chân lý cứu rỗi của Ngài. Xin Ngài cứu lấy anh ta. Đừng để anh ta tuyệt vọng khi tìm đến Ngài. Anh muốn tìm một việc làm lương thiện để nuôi vợ nuôi con. Ngài sẽ làm gì đối với đời sống của anh ta? Giả sử anh ta là tín đồ của Ngài thì có lẽ anh ta sẽ tự tìm được câu trả lời cho chính mình.”
Mục sư Edward cùng với Calvin cũng đang ngồi nghiêm nghị suy nghĩ, cân nhắc tìm câu trả lời thỏa đáng cho người đàn ông vừa hỏi. “Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” là một câu hỏi gây bao sự đổi thay kinh khủng của nhiều cuộc đời hứa nguyện. Chợt, Henry đứng lên:
– Thưa các bạn! Trong phòng này có ai là tín đồ Đấng Chirst? Có ai không? Nếu ai đã từng hứa nguyện theo gót chân Chúa thì ắt hẳn người đó sẽ có câu trả lời cho câu hỏi này hay hơn tôi!
Trong một lúc, sự im lặng bao trùm khắp căn phòng. Vài ba phút sau, một người đàn ông lớn tuổi ngồi ngay bàn gần cửa ra vào từ từ đứng dậy. Giọng anh run run:
– Tôi là một Cơ-đốc nhân. Khi tôi bị thất nghiệp, tôi vẫn cố gắng đặt ra câu hỏi “Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” trong hoàn cảnh của tôi. Cuối cùng, tôi đã không hổ thẹn nhận trợ cấp tại các cơ sở từ thiện để khỏi phải phạm tội ăn cắp. Tôi nghĩ Chúa đã thương tôi và tôi đã kinh nghiệm được phần nào sự hứa nguyện với Ngài.
Nói xong, anh đưa mắt nhìn khắp phòng với vẻ rụt rè, cả phòng yên lặng trong vài phút. Chợt một giọng nói sang sảng của một người đàn ông to con, tóc đen, có bộ râu xồm xoàm ngồi sau ghế ông Edward cất lên gây sự chú ý của mọi người:
– Còn tôi, Chúa Giê-xu sẽ làm gì trong trường hợp của tôi?
Có nhiều tiếng xì xào bên dưới:
– Ai vậy?
– Đó là Carlsen, người lãnh đạo đảng xã hội. Hãy lắng nghe xem anh ta muốn nói gì!
Carlsen bắt đầu với một cái tằng hắng:
– Theo tôi nghĩ. Cái gọi là văn minh hiện nay của xã hội chúng ta đang đi vào sự mục nát tận cùng rồi. Tư bản chủ nghĩa thể hiện sự tham lam một cách tinh vi, vắt kiệt giọt máu cuối cùng của những người nghèo khổ, cùng túng của xã hội. Tôi cảm ơn Chúa vì Ngài còn giữ gìn tôi bình an đến giờ này. Nhìn những bi kịch xã hội, tôi cảm thấy kinh khiếp khi lập gia đình. Có một cái nhà để trú thân là ước mơ gần như được lên thiên đường. Hai bàn tay trắng sống ở xã hội này chẳng khác gì sống ở địa ngục. Tôi lại càng ngạc nhiên hơn bao giờ hết khi nhìn thấy có nhiều người trong giáo hội sống không trung thực. Miệng họ nói: “yêu Chúa, yêu Chúa”, đi nhà thờ siêng năng hơn ai hết, hát những lời Thánh ca nói về tinh thần dâng hiến: hiến cả thảy cho Ngài, vác thập tự giá theo Ngài, chịu khổ vì Ngài… đủ thứ. Thế nhưng họ sống chẳng khác nào những phù thủy độc ác, sống cuộc đời xa hoa phung phí, chẳng mảy may lưu tâm đến những người nghèo, thất nghiệp và khốn cùng, sống vất vưởng bên hè cửa của họ.
Giọng Carlsen càng lúc càng lớn, lộ vẻ tức giận và bướng bỉnh. Anh nói thao thao bất tuyệt như đang thuyết trình, khiến người đàn ông ngồi phía sau nắm áo anh ta kéo ngồi xuống anh ta mới chịu ngừng lời.
Tiếp theo Carlsen, một người đàn ông khác đứng dậy chỉ trích nhà thờ, các mục sư một cách quyết liệt, tuyên bố thẳng thừng rằng trở ngại lớn nhất trên con đườg cải tạo xã hội chính là hệ thống Giáo hội và tòa án.
Một công nhân thuộc nhà máy luyện kim, đứng dậy mạnh dạn phát biểu ý kiến một cách tự tin. Anh ca ngợi chủ nghĩa công đoàn. Anh tin chắc chắn rằng chủ nghĩa này sẽ mang lại thời đại hoàng kim cho người dân lao động. Sau cùng, một người nữa đứng lên thắc mắc tại sao xã hội lại có quá đông người thất nghiệp, đưa ra lời kết tội các phát minh của các nhà khoa học là công việc vô cùng độc ác của ma quỷ trong quỷ kế phá hủy thế giới của Vua sự chết. Ý kiến của anh được nhiều người vỗ tay ủng hộ và hoan nghênh nhiệt liệt.
Để chấm dứt buổi “tự do ngôn luận”, Mục sư Edward đề nghị mọi người giữ yên lặng và mời Rachel Winslow lên hát một bài nhằm “đem lại sự thoải mái cho tất cả.”
Rachel Winslow đã trưởng thành thực sự kể từ ngày cô hứa nguyện làm theo như Chúa Giê-xu sẽ làm tại Raymond. Cô trung tín dâng tài năng ca hát của mình để phục vụ và tận hiến cho Chúa mỗi ngày.
Mọi người có mặt trong phòng họp hôm nay đều dõi mắt nhìn theo dáng người thon thả của cô khi cô bước lên máy vi-âm. Với phong cách tự nhiên, giọng hát ấm áp của cô trổi lên:
“Này con, lặng nghe Giê-xu phán truyền.
Hãy theo Ta mau ớ con, hãy theo Ta!”
Mục sư Henry Maxwell yên lặng nhìn gương mặt dịu dàng của Rachel. Ông đang hồi tưởng lại đêm đầu tiên ông đến Rectangle, Rachel cũng đã hát tại lều của Gray, khiến mọi người yên lặng và giọng ca đặc biệt của cô đã lôi cuốn mọi người cách mạnh mẽ. Ảnh hưởng ấy bây giờ cũng diễn ra tại đây một cách kỳ diệu!
Mọi người như muốn nhổm lên khỏi ghế để nghe Rachel hát rõ hơn. Giọng hát của cô truyền cảm vô cùng. Nhiều người tấm tắc khen: “Hay quá! Giọng hát này chẳng kém tí nào các ca sĩ chuyên nghiệp!” Thực sự, số đông người có mặt hôm nay chưa hề được nghe giai điệu du dương, yên ủi tâm hồn như thế bao giờ.
Ai nấy đều đang bị cuốn hút vào âm điệu trầm bổng của bản thánh ca, và được cảm động sâu xa. Carlsen cảm thấy được yên ủi nhiều lắm. Nước mắt anh ứa ra, chảy dài trên má. Người đàn ông thất nghiệp ban nãy muốn biết Chúa Giê-xu sẽ làm gì ở cương vị của anh cũng nghe Rachel hát một cách say sưa. Một bàn tay đen đúa nhớp nháp bụi than đặt lên thành ghế dựa trước mặt, miệng anh há hốc ra, vẻ mặt anh tươi tỉnh hẳn lên. Có lẽ anh đã quên đi bi kịch cuộc sống trong giây phút tưởng chừng như thiên thần đang hát xướng này. Còn người đàn ông ban nãy đã lớn tiếng đả kích nhà thờ, giáo hội, giờ đây đang ngồi ngước thẳng lên, nhìn Rachel chăm chú. Ánh mắt của anh buồn buồn, đọng lại bao điều suy nghĩ.
Henry thầm cảm tạ ơn Chúa về ân tứ Ngài đã ban trên Rachel, đem ích lợi cho nhà Chúa. Âm nhạc là phương tiện rao giảng nước Thiên đàng đi vào lòng người nghe dễ chịu và có tác dụng hơn nhiều hình thức khác. Mọi người cảm thấy luyến tiếc khi bài hát của Rachel đã kết thúc. Mục sư Henry hi vọng “tinh thần tín đồ mới” sẽ được hình thành và phát triển ở khu định cư này kể từ đây. Ông mong muốn con cái Chúa ở đây cũng sẽ sớm thực hiện hứa nguyện làm theo gương Chúa Giê-xu như ở Raymond, xóa nhòa ranh giới ngăn cách giữa người giàu có, quý phái và giai cấp bình dân, lao động nghèo khổ. Ông nhủ thầm rằng nếu như tất cả mọi tín đồ ở các Hội thánh đều đồng tình làm như Chúa Giê-xu sẽ làm thì cuộc sống phước hạnh biết bao, sẽ không còn ai phàn nàn, nguyền rủa nhà thờ, giáo hội, hoặc lao mình vào những thú vui từ những quán rượu, hộp đêm,…. để tìm nguồn yên ủi và hạnh phúc nữa. Henry mong ước và thầm nguyện cho người dân xứ này sớm tìm thấy nguồn an bình thật từ nơi Cứu Chúa Giê-xu.
Thư Viện Tin Lành
www.thuvientinlanh.org