Tìm Hiểu: Câu Chuyện Con Rắn Đồng
(Photo credit: www.wikipedia.org)
Câu Chuyện Con Rắn Đồng
Trong Thánh Kinh có một câu chuyện về con rắn bằng đồng. Câu chuyện này liên quan đến lịch sử của người Do Thái và của cả nhân loại.
Bối Cảnh
Trước khi trở thành một quốc gia, người Do Thái bị làm nô lệ tại Ai Cập hơn 400 năm. Giữa cuộc sống đầy đau khổ tủi nhục, người Do Thái đã cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu. Đức Chúa Trời đoái thương dân Do Thái nên sai Môi-se đến yêu cầu Pha-ra-ôn, vua của Ai Cập, cho dân Do Thái được tự do. Pha-ra-ôn không chấp thuận lời thỉnh cầu của Môi-se; do đó, Đức Chúa Trời phải can thiệp bằng nhiều phép lạ để cứu người Do Thái khỏi Ai Cập.
Sau khi rời Ai Cập, Chúa đem người Do Thái đến Ca-đe Ba-nê-a để sửa soạn vào Đất Hứa mà Ngài đã chuẩn bị sẵn cho họ. Tuy nhiên, người Do Thái lo sợ trước những khó khăn có thể xảy ra nên đã từ chối vào Đất Hứa. Họ lằm bằm chống lại Đức Chúa Trời và nói rằng Chúa đem họ vào hoang mạc để giết họ. Vì thái độ vô tín phản nghịch đó, Đức Chúa Trời đã trừng phạt thế hệ những người Do Thái đầu tiên rời khỏi Ai Cập không cho phép họ vào Đất Hứa. Sau đó, dân Do Thái phải lưu lạc từ nơi này sang nơi khác trong 40 năm (Dân Số Ký 13-14, Phục Truyền 1:19-40).
Trong suốt khoảng thời gian đó, Đức Chúa Trời vẫn chu cấp nhu cầu cần dùng cho người Do Thái. Chúa ban bánh ma-na làm lương thực cho họ mỗi ngày. Khi họ muốn ăn thịt, Chúa sai chim cút đến cung cấp thịt cho họ. Khi họ thiếu nước uống, Đức Chúa Trời cho nước từ vầng đá chảy ra cho họ uống (Dân Số Ký 20:2-13). Trong cuộc hành trình kéo dài 40 năm, những người thuộc thế hệ đầu tiên rời Ai Cập, trong đó có Mi-ri-am và A-rôn, lần lượt qua đời (Dân Số Ký 20). Một thế hệ mới được gầy dựng để chuẩn bị nhận phước hạnh và Đất Hứa từ nơi Chúa.
Con Rắn Đồng
Tuy nhiên, một lần nữa chuyện buồn lại xảy ra. Sau lễ an táng A-rôn tại núi Hu-rơ, lấy cớ thiếu nước uống, dân chúng lại oán trách Môi-se và Đức Chúa Trời, mặc dầu trước đó không lâu Đức Chúa Trời đã truyền cho nước từ vầng đá chảy ra cho họ uống (Dân Số Ký 20-21). Không chỉ phàn nàn về sự thiếu thốn, người Do Thái còn bày tỏ thái độ vô ơn với Đức Chúa Trời về sự chu cấp hằng ngày mà Ngài đã ban cho họ. Họ nói: “Chúng tôi đã ghê tởm thứ đồ ăn đạm bạc này” (Dân Số Ký 21:5).
Trước lòng vô tín, thái độ vô ơn và tinh thần phản nghịch của người Do Thái, Đức Chúa Trời cho phép rắn lửa trong đồng hoang đến cắn dân Do Thái, làm nhiều người chết. Sau khi tai nạn rắn cắn xảy ra, người Do Thái đã đến thưa với Môi-se: “Chúng tôi có phạm tội, vì đã nói nghịch Đức Giê-hô-va và người. Hãy cầu xin Đức Giê-hô-va để Ngài khiến rắn lìa xa chúng tôi” (Dân Số Ký 21:7).
Môi-se cầu xin Chúa tha thứ cho người Do Thái. Đức Chúa Trời đã lắng nghe lời cầu xin của ông. Đức Chúa Trời truyền cho Môi-se làm một con rắn lửa, rồi treo con rắn đó trên một cây sào; nếu ai bị cắn, hãy nhìn vào biểu tượng đó sẽ được sống. Môi-se vâng theo lời Chúa làm một con rắn lửa bằng đồng rồi treo lên cây sào. Những người bị rắn cắn đã nhìn vào biểu tượng đó và được cứu.
Sau đó, người Do Thái tiếp tục hành trình vào Đất Hứa. Con rắn bằng đồng mà Môi-se theo lệnh Chúa làm đã được lưu giữ làm vật kỷ niệm về ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Ý Nghĩa
Trong thời Tân Ước, Ni-cô-đem, một học giả Do Thái, đến gặp Đức Chúa Jesus để tìm hiểu về sự sanh lại và sự sống đời đời, Đức Chúa Jesus đã giải thích như sau: “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu.” (Giăng 3:14-17)
Đức Chúa Jesus đã so sánh hình ảnh Chúa bị treo trên thập tự giống như hình ảnh con rắn đồng được Môi-se treo lên cây sào. Cả hai là biểu tượng về giải pháp cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho loài người nhằm giải quyết những hậu quả của tội lỗi mà con người đã gây ra. Những người Do Thái vào thời Môi-se bị rắn cắn muốn được cứu sống phải tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và nhìn vào con rắn bị treo lên cây sào; những tội nhân ngày nay muốn thoát khỏi nọc độc của tội lỗi là sự chết, cần tin cậy nơi sự hy sinh cứu chuộc của Đức Chúa Jesus.
Đức Chúa Jesus cũng nói rõ với Ni-cô-đem rằng Ngài không phải là con rắn. Rắn lửa vào thời Môi-se được Đức Chúa Trời sai đến để kỷ luật người Do Thái; tuy nhiên Đức Chúa Jesus nói Con Đức Chúa Trời đến thế gian không phải để đoán xét, trừng phạt thế gian, nhưng Chúa đến để nhân thế nhờ Ngài mà được cứu.
Bài Học
Câu chuyện con rắn đồng được Thánh Kinh nhắc lại vào thời vua Ê-xê-chia cai trị vương quốc Giu-đa (715-689 T.C.). Sau khi lên ngôi, vào ngày 1 tháng 1 đầu năm, vua Ê-xê-chia cho sửa sang đền thờ và khôi phục lại sự thờ phượng Đức Chúa Trời đã bị lãng quên từ thế hệ trước. Một trong những điều vua Ê-xê-chia đã làm trong việc chấn chỉnh sự thờ phượng là ra lệnh đập vỡ con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Thánh Kinh cho biết lý do vua Ê-xê-chia đã làm điều này vì lúc đó dân Do Thái xông hương và thờ phượng con rắn ấy (II Các Vua 18:4). Việc làm của Ê-xê-chia đẹp lòng Đức Chúa Trời. Chúa ban phước cho vua Ê-xê-chia và vương quốc của vua được cường thạnh.
Câu chuyện con rắn đồng nhắc chúng ta vài điều. Bài học đầu tiên của câu chuyện này nhắc chúng ta về sự vô tín. Trước khi người Do Thái bị rắn lửa cắn, nọc độc về sự dối gạt, vô tín từ con rắn đầu tiên đã gieo vào lòng rất nhiều người: từ A-đam, Ê-va cho tới những người Do Thái sống trong thời Môi-se. Ma quỷ vẫn gieo nọc độc đó vào lòng nhiều người ngày nay. Nọc độc của tội lỗi có thể làm bạn tê liệt và đem đến cho bạn cái chết; nhưng đức tin nơi Đức Chúa Jesus đem đến cho bạn sự cứu rỗi, sự đắc thắng và sự sống đời đời. Sứ đồ Phao Lô đã viết: “Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Nọc độc của tử thần là tội lỗi, và sức mạnh của tội lỗi là luật pháp; nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Đấng ban chiến thắng cho chúng ta trong Đức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta” (I Cô-rinh-rô 15:55-57).
Bài học thứ hai trong câu chuyện này liên hệ đến sự mê tín. Con rắn đồng mà Đức Chúa Trời đã truyền cho Môi-se làm, chỉ là biểu tượng của sự cứu rỗi. Người Do Thái đã mắc một sai lầm nghiêm trọng là họ đã thờ phượng con rắn đồng, biểu tượng của sự cứu rỗi, thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời, Đấng ban sự cứu rỗi.
Con rắn đồng bị vua Ê-xê-chia đập vỡ là một nhắc nhở cho người tin Chúa. Có những vật Chúa cho phép làm, được dùng như biểu tượng của đức tin; tuy nhiên người tin Chúa không được phép cầu nguyện, dâng hương, thờ phượng những vật đó, dầu có người coi đó là thánh vật, là biểu tượng của chính Chúa. Câu chuyện con rắn đồng trong Thánh Kinh nhắc chúng ta chỉ thờ phượng Chúa và thờ phượng chỉ một mình Ngài mà thôi.
Bài học thứ ba trong câu chuyện này liên quan đến lòng trung tín. Đức Chúa Trời đã yêu thương chăm sóc cho người Do Thái mọi nhu cầu. Ngài lo cho họ mọi việc từ miếng ăn, nước uống, từ sở thích ăn thịt đến việc che mát vào ban ngày và soi sáng vào ban đêm. Chúa giải phóng người Do Thái khỏi cảnh nô lệ, ban cho họ cuộc sống tự do, cứu họ khỏi diệt vong, ban cho họ đất đai, thành lập quốc gia cho họ, … Điều đáng tiếc là người Do Thái đã không nhớ những ơn phước lớn lao mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ; nhưng ngược lại dùng những cớ rất nhỏ mọn, như thiếu nước uống, để chống nghịch lại Đức Chúa Trời.
Giống như người Do Thái ngày xưa, bạn và tôi là những lữ khách trên đất. Biết bao lần Chúa giúp bạn và tôi trong cuộc đời này, từ những việc rất nhỏ đến những việc trọng đại. Có bao giờ chúng ta, như người Do Thái ngày xưa, bày tỏ sự vô tín, phàn nàn, gây rối và chống nghịch Chúa không? Bạn thân mến! Xin đừng để những nọc độc của rắn tiêm nhiễm vào cuộc đời của bạn; ngược lại, hãy đặt trọn lòng tin vào nơi Chúa.
Đức tin và lòng trung thành là yếu tố căn bản hướng dẫn chúng ta đi đến nơi mình chọn lựa. Giống như người Do Thái ngày xưa, bạn có quyền chọn lựa. Bạn có thể tin cậy Chúa tiến vào Đất Hứa để vui hưởng phước hạnh Chúa đã chuẩn bị sẵn cho mình hay chống nghịch Ngài để tiếp tục cuộc sống lang thang vô định trong hoang mạc.
Phước Nguyên
Xuân Quý Tỵ (2013)
Thư Viện Tin Lành
www.thuvientinlanh.org