Thư Viện Tin Lành: Trang Nhà » Âm Nhạc » Phim Ngắn: Ru-tơ – Người Phụ Nữ Tin Kính

Phim Ngắn: Ru-tơ – Người Phụ Nữ Tin Kính

Lời Ban Biên Tập:

Vào thập niên 1950, khi màn ảnh truyền hình (television – TV) vừa trở nên phổ biến tại Hoa Kỳ, một số người yêu mến Chúa và các cơ quan truyền giáo đã nhanh chóng chuyển những câu chuyện trong Kinh Thánh lên màn ảnh nhỏ và tận dụng phương tiện truyền thông để giới thiệu sứ điệp của Chúa cho công chúng chưa quen với những ký thuật trong Kinh Thánh.  .

Theo một số tài liệu thống kê, hiện nay trên thế giới có hằng tỷ người xem phim và video mỗi ngày. Với kỹ thuật làm phim và phương tiện phổ biến phim thật đơn giản hiện nay,  rất nhiều người bình thường – từ những bà nội trợ cho đến các em học sinh – đều có thể làm video và phổ biến cho người xem khắp nơi. Thư Viện Tin Lành hy vọng rằng sẽ có nhiều người Việt yêu mến Chúa thực hiện những phim ngắn về đề tài trong Kinh Thánh trong nhiều thể loại khác nhau để giới thiệu Lời Chúa cho người Việt trong tương lai. 

Phim: Ru-tơ – Người Phụ Nữ Tin Kính
Nguyên tác: Ruth – The Faithful Woman (1955)
Kinh Thánh: Ru-tơ 1-4

Sơ Lược:

Ru-tơ (Ruth) là một thiếu nữ người Mô-áp. Ru-tơ thành hôn với một thanh niên Do Thái (Giu-đa) đã di cư đến sống tại Mô-áp.  Không bao lâu sau khi lập gia đình, chồng của Ru-tơ mất sớm.  Sau đó, mẹ chồng của Ru-tơ là Na-ô-mi  hồi hương.  Ru-tơ  quyết định theo mẹ chồng trở về Do Thái và cô cũng quyết định thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng mà người Do Thái thờ phượng.  Câu chuyện sau đó thuật lại thế nào Ru-tơ đã gặp người chồng mới và trở thành tổ mẫu của Vua Đa-vít, là vị vua cai trị nước Do Thái cách đây 3000 năm.    

Nội Dung:

Vào thời các thẩm phán cầm quyền tại xứ Giu-đa, có một nạn đói xảy ra. Có một người từ Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đa, đã cùng với vợ và hai con trai đến sống tại nước Mô-áp. Người này tên là Ê-li-mê-léc, tên của người vợ là Na-ô-mi; tên của hai con trai là Mạc-lôn và Ki-li-ôn. Họ là dân Ê-phơ-rát thuộc vùng Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa. Họ đã đến nước Mô-áp và định cư tại đó.

Và rồi Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời để lại cho bà hai con trai. Họ cưới vợ là những phụ nữ Mô-áp – một người tên là Ọt-ba và người kia tên là Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm thì Mạc-lôn và Ki-li-ôn cả hai đều qua đời, để lại một phụ nữ không chồng và không con.

Lúc đang sống tại Mô–áp, Na-ô-mi nghe rằng Đức Giê-hô-va đã đoái thương dân của Ngài và ban lương thực cho họ. Sau đó, từ Mô-áp Na-ô-mi cùng với hai con dâu khởi hành hồi hương.   Vì vậy Na-ô-mi đã rời nơi mình đang sống, bà cùng với hai con dâu lên đường trở về xứ Giu-đa.

Na-ô-mi nói cùng hai con dâu của mình:

– Các con à! Hai con hãy trở về nhà mẹ của mình. Xin Đức Giê-hô-va đối xử nhân từ với các con như các con đã đối xử với mẹ và những người quá cố. Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho các con để người nào cũng được bình an nơi nhà chồng mới của mình!

Rồi bà ôm hôn hai con dâu của mình và khóc thật lớn.

Họ nói với bà:

– Không! Chúng con sẽ đi theo mẹ, và trở về với dân tộc của mẹ.

Tuy nhiên Na-ô-mi trả lời:

– Hãy quay trở lại! Các con gái của mẹ! Tại sao các con lại đi theo mẹ? Mẹ có còn các con trai trong lòng để có thể làm chồng cho các con hay sao? Hãy quay trở về đi! Các con của mẹ! Hãy đi đi bởi vì mẹ đã quá già để có thể lấy chồng nữa. Dầu mẹ nói là mẹ có hy vọng, dầu mẹ lấy chồng tối nay và sẽ có thai các con trai. Liệu các con có chờ đợi cho đến khi chúng lớn hay sao? Các con vẫn ở vậy mà không lấy chồng khác hay sao? Không! Các con gái của mẹ. Nỗi đắng cay của mẹ nhiều hơn của các con rất nhiều, bởi vì tay của Đức Giê-hô-va đã chống lại mẹ.

Rồi họ lại khóc lớn một lần nữa.

Sau đó, Ọt-ba hôn từ biệt mẹ chồng của nàng, nhưng Ru-tơ vẫn quyến luyến bên bà.

Na-ô-mi nói với Ru-tơ:

– Kìa! Chị dâu của con đã trở về cùng dân tộc và các thần của nó. Hãy đi về theo chị dâu của con đi!

Tuy nhiên Ru-tơ thưa:

– Xin đừng ép con lìa khỏi mẹ hay phải trở về mà không được theo mẹ. Mẹ đi đâu con sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào con sẽ ở nơi đó; dân tộc của mẹ là dân tộc của con; Đức Chúa Trời của mẹ là Đức Chúa Trời của con. Mẹ chết nơi nào, con sẽ chết và được chôn tại đó. Ngoài sự chết, nếu vì lý do nào khác khiến con phân cách mẹ, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa trên con!

Khi Na-ô-mi thấy nàng cương quyết theo mình, bà không nói thêm với nàng điều gì nữa. Vì vậy, hai người tiếp tục hành trình cho tới khi họ về đến Bết-lê-hem.

Khi họ đến Bết-lê-hem, cả thành đều xôn xao về họ. Họ hỏi:

– Đây có phải là Na-ô-mi không?

Bà trả lời:

– Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi nữa! Hãy gọi tôi là Ma-ra bởi vì Đấng Toàn Năng đã đối đãi với tôi từ cay đắng này sang cay đắng khác. Tôi ra đi đầy đủ, nhưng Đức Giê-hô-va đã đưa tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi trong khi Đức Giê-hô-va đã đãi tôi cách khắc nghiệt và Đấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?

Na-ô-mi cùng với con dâu là Ru-tơ, một phụ nữ Mô-áp, đã trở về từ nước Mô-áp, là như vậy. Họ đến Bết-lê-hem vào đầu mùa gặt lúa mạch.

Na-ô-mi có một người bà con bên chồng – là một người rất giàu – thuộc về gia tộc của Ê-li-mê-léc. Tên của người này là Bô-ô.

Ru-tơ, phụ nữ người Mô-áp, đã thưa với Na-ô-mi:

– Xin cho phép con ra đồng để mót lúa và theo sau người nào mà con được ơn trước mặt người đó.

Na-ô-mi nói với nàng:

– Con hãy đi đi!

Và rồi, nàng đã đi, và đến mót lúa trong một cánh đồng theo sau những thợ gặt. Thật tình cờ, nàng đã đến trong đám ruộng của Bô-ô là một người thuộc về gia tộc của Ê-li-mê-léc.

Lúc nầy, Bô-ô từ Bết-lê-hem đến, để chào những thợ gặt:

– Nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng các anh chị em!

Họ đáp lại:

– Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ông!

Bô-ô hỏi người đầy tớ chịu trách nhiệm trông coi những thợ gặt:

– Thiếu nữ này là người của ai?

Người đầy tớ trông coi thợ gặt trả lời:

– Đó là một thiếu phụ người Mô-áp – là người đã trở về cùng với Na-ô-mi từ nước Mô-áp – Nàng có xin: ‘Hãy cho phép tôi mót và nhặt những gié lúa ở phía sau những thợ gặt.’ Vì vậy cô ta đã đến và đã mót liên tục từ sáng cho đến giờ – mặc dù cô có nghỉ ở trong chòi một chút.

Bô-ô nói cùng Ru-tơ:

– Nầy, con gái của ta! Con hãy lắng nghe! Đừng đi mót trong một cánh đồng nào khác, và cũng đừng rời khỏi đây; nhưng hãy ở sát bên cạnh những tớ gái của ta. Hãy để ý xem họ gặt tại cánh đồng nào, rồi hãy đi theo họ. Ta đã ra lệnh cho các tớ trai của ta không được đụng đến con! Và khi nào con khát, hãy đến những cái vò và uống nước mà các tớ trai đã rót.

Do đó nàng đã sấp mặt xuống, quỳ dưới đất, và nói cùng Bô-ô rằng:

– Tại sao con lại được ơn trước mặt ông, để ông phải lưu ý đến con, mặc dù con chỉ là một người ngoại quốc?

Bô-ô trả lời và nói cùng nàng:

– Ta đã được tường thuật đầy đủ về tất cả những việc con đã làm cho mẹ chồng của con kể từ khi chồng con chết; và thế nào con đã lìa cha mẹ của con, xứ sở đã sinh ra con, để đến với một dân tộc mà trước đó con không hề biết. Đức Giê-hô-va đã đền đáp cho việc con đã làm, và con sẽ được ban thưởng đầy đủ bởi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng mà con đã đến để tìm nơi nương dựa dưới cánh của Ngài.

Rồi nàng nói:

– Nguyện con được ơn trước mặt ông, là chúa của con; bởi vì ông đã an ủi con, và đã nói lời tử tế với tớ gái của ông, mặc dù con không bằng một người trong những tớ gái của ông!

Đến lúc ăn, Bô-ô nói cùng nàng:

– Hãy lại đây, ăn bánh, và chấm miếng bánh của con vào giấm!

Vì vậy nàng ngồi bên cạnh những thợ gặt; ông chuyền những hạt rang cho nàng; nàng ăn thỏa thuê và để dành một ít.

Sau khi nàng đứng dậy để đi mót lúa, Bô-ô ra lệnh cho những đầy tớ trai của mình rằng:

– Hãy để cho nàng mót, thậm chí ngay ở giữa những đám lúa, đừng làm xấu hổ nàng. Cũng hãy cố tình làm rớt lúa từ những bó lúa cho nàng, để nàng có thể mót, và đừng rầy la nàng.

Như vậy Ru-tơ đã mót lúa ngoài đồng cho đến tối, rồi đập lúa mà nàng đã mót được ước chừng một ê-pha lúa mạch.

Sau đó, nàng mang lúa rồi đi vào trong thành. Mẹ chồng của nàng nhìn thấy những thứ mà nàng đã mót. Sau đó, nàng lấy và trao cho bà phần ăn mà nàng đã để dành lúc nàng ăn.

Và rồi mẹ chồng của nàng hỏi:

– Hôm nay con mót ở đâu? Con làm ở đâu? Phước cho người đã quan tâm đến con!

Vì vậy nàng đã thuật lại cho mẹ chồng nàng đã làm việc với ai, và nói:

– Tên của người mà hôm nay con làm việc ở chỗ của người đó là Bô-ô.

Sau đó Na-ô-mi nói với con dâu của mình:

– Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho Bô-ô bởi vì Ngài không từ bỏ sự nhân từ của Ngài cho người sống và người chết!

Rồi bà nói với nàng:

– Người này là bà con của chúng ta – là một trong những người có quyền chuộc lại sản nghiệp của chúng ta.

Ru-tơ thiếu phụ người Mô-áp nói:

– Ông ấy cũng nói với con rằng: ‘Con hãy ở bên cạnh những đầy tớ của ông cho đến khi họ hoàn tất mùa gặt của ông.’

Sau đó, Na-ô-mi nói với Ru-tơ, con dâu của bà:

– Con gái của mẹ! Thật tốt cho con đi theo những tớ gái của ông ấy, và để người ta không gặp con ở bất kỳ cánh đồng nào khác.

Vì vậy, Ru-tơ đã ở bên cạnh những tớ gái trẻ của Bô-ô, để mót lúa cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa mì; và nàng vẫn sống với mẹ chồng của nàng.

Sau đó, Na-ô-mi, mẹ chồng của nàng nói với nàng:

Con gái của mẹ! Lẽ nào mẹ không lo cho con một chỗ an thân để con được hạnh phúc? Hiện giờ Bô-ô – người có những đầy tớ gái mà con đã đi theo – ông ấy không phải là bà con của chúng ta hay sao? Tối nay ông ấy sẽ sảy lúa mạch tại sân đập lúa. Vì vậy, con hãy tắm rửa, xức dầu thơm, mặc trang phục đẹp nhất, và rồi hãy đi xuống sân đập lúa; nhưng đừng để ông ấy thấy con cho đến khi ông ấy ăn uống xong. Đến khi ông ấy nằm xuống, con hãy để ý ông nằm chỗ nào; và con sẽ vào đó, giở mền dưới chân của ông, và nằm xuống; rồi chính ông sẽ nói cho con điều gì con cần phải làm.

Nàng nói với bà:

Con sẽ làm theo tất cả mọi điều mẹ dặn.

Vì vậy, nàng đã đi xuống sân đập lúa và làm theo mọi điều mẹ chồng nàng đã hướng dẫn nàng. Sau khi Bô-ô ăn uống xong, lòng khoan khoái, ông đến cuối đống lúa và nằm tại đó; và nàng đã nhè nhẹ đến, giở mền dưới chân của ông, rồi nằm xuống.

Chuyện xảy ra vào nửa đêm, lúc này Bô-ô giật mình trở người, có một phụ nữ nằm dưới chân của mình. Ông hỏi:

– Nàng là ai?

Nàng đáp:

– Con là Ru-tơ, là tôi đòi của ông. Xin ông hãy nhận tôi đòi của ông dưới sự che chở của ông bởi vì ông là người bà con thân cận có quyền chuộc sản nghiệp.

Sau đó Bô-ô nói:

– Con gái của ta! Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho con! Bởi vì nghĩa cử con làm sau này lại hơn cả ban đầu, bởi vì con đã không đi theo những thanh niên – bất luận nghèo hay giàu. Bây giờ, con gái của ta, đừng sợ! Ta sẽ thực hiện mọi điều con thỉnh cầu, bởi vì tất cả dân chúng trong thành của ta đều biết rằng con là một phụ nữ đức hạnh.

Thật vậy! Lúc này, ta là người bà con thân cận có quyền chuộc sản nghiệp, tuy nhiên có một người bà con thân cận có quyền chuộc sản nghiệp gần hơn ta. Hãy ở lại đêm nay, và sáng mai, nếu ông ấy thực hành trách nhiệm của người bà con thân cận để chuộc sản nghiệp cho con  thì tốt, hãy để ông ấy làm điều đó. Nhưng nếu ông ấy không muốn thực hành trách nhiệm với con, thì thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, ta sẽ thực hành trách nhiệm cho con! Hãy nằm xuống và nghỉ cho đến sáng.”

Vì vậy nàng nằm dưới chân của ông cho đến sáng, rồi nàng dậy sớm trước khi một người có thể nhận ra người khác. Sau đó, ông nói:

– Đừng để ai biết rằng có một phụ nữ vào sân đập lúa.

Ông cũng nói:

– Hãy đưa vạt áo con đang mặc và giữ chặt.

Nàng giữ vạt áo, ông đã đong và trút cho nàng sáu lường lúa mạch. Sau đó, nàng trở vào trong thành.

Khi nàng trở về cùng mẹ chồng của mình, bà hỏi:

– Con gái của mẹ! Có phải con đó không?

Sau đó nàng thuật cho bà mọi điều Bô-ô đã làm cho nàng. Nàng nói:

– Ông ấy đã cho con sáu lường lúa mạch nầy đây, bởi vì ông đã nói với con: ‘Đừng đi tay không trở về cùng mẹ chồng của con.’

Sau đó, bà nói:

– Con gái của mẹ! Hãy ngồi yên cho tới khi con biết sự việc sẽ ra thế nào, bởi vì người sẽ không nghỉ ngơi cho tới khi hoàn tất vấn đề nầy ngay hôm nay.

Lúc này, Bô-ô đã đi đến cổng thành và ngồi tại đó. Kìa, người bà con có quyền chuộc sản nghiệp – mà Bô-ô đã nói – cũng vừa đi qua. Bô-ô nói:

– Mời anh đến bên cạnh, hãy ngồi đây.

Vì vậy, người đó đã đến bên cạnh, và ngồi xuống.

Sau đó, Bô-ô đã mời mười người trong các trưởng lão của thành, rồi nói:

– Xin hãy ngồi đây.

Vì vậy họ đã ngồi xuống.

Sau đó, Bô-ô nói với người có quyền chuộc sản nghiệp:

– Na-ô-mi, là người đã từ nước Mô-áp trở về, bán miếng đất thuộc về người anh của chúng ta là Ê-li-mê-léc. Tôi nghĩ cần báo cho anh biết rằng: Trước sự hiện diện của những người đang ở tại đây và các trưởng lão của dân chúng, xin anh hãy mua lại sản nghiệp đó. Nếu anh muốn chuộc sản nghiệp đó, hãy chuộc đi; nhưng nếu anh không chuộc lại nó thì hãy nói cho tôi để tôi có thể biết, bởi vì không ai ngoại trừ anh có quyền chuộc nó, và tôi là người kế sau anh.

Người ấy nói:

– Tôi sẽ chuộc.

Bô-ô nói tiếp:

– Vào ngày anh mua ruộng từ tay của Na-ô-mi, và từ Ru-tơ – phụ nữ người Mô-áp – anh cũng phải mua vợ của người quá cố để lưu danh người quá cố thông qua những gì thuộc về người đó.

Và rồi người có quyền chuộc sản nghiệp đã trả lời:

– Tôi không thể chuộc được, e rằng tôi sẽ hủy hoại những gì thuộc về mình chăng. Xin anh hãy nhận quyền chuộc sản nghiệp của tôi cho chính anh, bởi vì tôi không thể chuộc được.

Ngày xưa, trong Y-sơ-ra-ên có phong tục liên quan đến việc trao đổi và chuộc lại, để xác nhận một điều gì, người nầy phải cởi giày của mình mà trao cho người kia và đó là cách xác chứng trong dân Y-sơ-ra-ên.

Do đó, người có quyền chuộc sản nghiệp đã nói với Bô-ô rằng:

– Hãy mua cho anh.

Rồi người đó cởi giày mình ra.

Sau đó, Bô-ô đã nói với các trưởng lão và tất cả dân chúng:

– Hôm nay, quý vị làm chứng rằng tôi đã mua tất cả những gì thuộc về Ê-li-mê-léc – và tất cả những gì thuộc về Ki-li-ôn và Mạc-lôn – từ tay của Na-ô-mi. Thêm vào đó, tôi cũng lấy Ru-tơ, phụ nữ người Mô-áp, góa phụ của Mạc-lôn, làm vợ của tôi, để nêu danh người quá cố qua những gì thuộc về người đó, để danh của người quá cố không bị cắt đứt ở giữa các anh em của người và khỏi vị trí của người đó tại cổng thành. Hôm nay quý vị là những nhân chứng.

Và rồi tất cả mọi người tại cổng thành và các trưởng lão đã nói:

– Chúng tôi là những nhân chứng. Nguyện Đức Giê-hô-va làm cho phụ nữ vào nhà anh giống như Ra-chên và Lê-a, là hai người đã xây dựng nhà Y-sơ-ra-ên; và chúc cho anh được thịnh vượng tại Ép-ra-ta và được nổi danh tại Bết-lê-hem! Nguyện dòng dõi mà Đức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy, sẽ khiến cho nhà của anh giống như nhà của Pha-rết, mà Tha-ma đã sinh cho Giu-đa.

Như vậy, Bô-ô đã lấy Ru-tơ và nàng trở thành vợ của ông; và khi ông đến cùng nàng, Đức Giê-hô-va đã cho nàng thụ thai, và nàng đã sinh một con trai.

Sau đó, các phụ nữ đã nói với Na-ô-mi:

– Chúc tụng Đức Giê-hô-va! Hôm nay Ngài đã chẳng khước từ ban cho bà một thân tộc gần gũi; và nguyện nó được nổi danh trong Y-sơ-ra-ên! Nguyện nó sẽ là người mang lại sinh khí cho bà và là người nuôi dưỡng bà trong tuổi già, bởi vì con dâu của bà, là người yêu thương bà – quý cho bà hơn bảy con trai – đã sinh nó.

Sau đó, Na-ô-mi bồng đứa trẻ, ôm vào lòng mình, và rồi trở thành người nuôi nấng nó.

Những phụ nữ láng giềng cũng đặt cho nó một cái tên, nói rằng: “Có một con trai đã được sinh cho Na-ô-mi.” Và họ gọi tên của nó là Ô-bết. Ông là cha của Gie-sê và là ông nội của Đa-vít.

Đây là dòng dõi của Pha-rết: Pha-rết sinh Hết-rôn. Hết-rôn sinh Ram; Ram sinh A-mi-na-đáp; A-mi-na-đáp sinh Na-ha-sôn; Na-ha-sôn sinh Sanh-ma; Sanh-ma sinh Bô-ô; Bô-ô sinh Ô-bết; Ô-bết sinh Gie-sê và Gie-sê sinh Đa-vít.

Lược trích từ Bản Dịch Đại Chúng – Thư Viện Tin Lành

Thư Viện Tin Lành (2012)
www.thuvientinlanh.org

Leave a Comment

You must be logged in to post a comment.

©2012-2023 by Thư Viện Tin Lành

Scroll to top