Kiến Thức: Một Phong Tục Tết Trong Kinh Thánh
Một Phong Tục Tết Trong Kinh Thánh
Tết là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào ngày đầu năm. Bởi vì Tết là một ngày lễ truyền thống cho nên có rất nhiều phong tục được lưu truyền và được thực hiện vào dịp Tết. Kinh Thánh có ghi lại một phong tục được thực hiện vào ngày đầu năm – là ngày mà người Việt chúng ta gọi là ngày Tết.
Truyền thống đầu năm
Ký thuật trong sách Ê-xê-chi-ên cho biết Đức Chúa Trời đã truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên mạng lệnh như sau: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mồng một tháng giêng, ngươi khá lấy một con bò đực tơ không tì vít, và khá làm sạch nơi thánh.“ (Ê-xê-chi-ên 54:18).
Có lẽ một trong những lý do khiến Đức Chúa Trời truyền cho người Do Thái phải thực hiện mạng lệnh làm sạch nơi thánh vào ngày đầu năm đó là vì người Do Thái thường kỷ niệm Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Giêng. Vì vậy, hai tuần trước đó vào ngày mồng một tháng Giêng, người Do Thái cần phải làm sạch Đền Thờ để chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua.
Có một điểm đáng lưu ý đó là Đức Chúa Trời đã truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên mạng lệnh này vào lúc người Do Thái bị lưu đày tại Ba-by-lôn, tức là vào lúc mà Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem không còn nữa. Trước đó quân đội của vua Nê-bu-cát-nết-sa đã hủy diệt Đền Thờ mà vua Sa-lô-môn đã xây dựng tại Giê-ru-sa-lem (II Các Vua 25:8-17). Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời đã ban cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên một khải tượng về một Đền Thờ mới trong tương lai (Ê-xê-chi-ên 40-48), và trong câu Kinh Thánh được trích dẫn ở trên, Đức Chúa Trời đã truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên hướng dẫn cho dân của Chúa cần phải làm gì với Đền Thờ mới của Ngài.
Thanh tẩy Đền Thờ dưới thời vua Ê-xê-chia
Mặc dầu Đức Chúa Trời truyền mạng lệnh thanh tẩy Đền Thờ cho người Do Thái trong thời lưu đày, tuy nhiên trước đó đã có vài lần người Do Thái đã thanh tẩy Đền Thờ. Vua Ê-xê-chia và vua Giô-si-a là hai vị vua đã thực hiện việc thanh tẩy Đền Thờ, và việc thanh tẩy Đền Thờ do họ khởi xướng đã dẫn đến những cơn phục hưng dưới triều đại của hai vị vua này.
Kinh Thánh cho biết vào năm đầu tiên sau khi vua Ê-xê-chia lên ngôi, vua đã truyền lệnh cho người Do Thái thanh tẩy Đền Thờ – bởi vì trước đó thân phụ của vua là vua A-cha đã làm ô uế Đền Thờ, đã đóng cửa Đền Thờ, đã ngưng sự thờ phượng Chúa: “Tháng giêng năm đầu người trị vì, người mở các cửa đền của Đức Giê-hô-va, và sửa sang lại. Người đòi những thầy tế lễ và người Lê-vi đến, hiệp chúng lại tại nơi phố phía đông, mà bảo rằng: Hỡi người Lê-vi, hãy nghe ta! Bây giờ khá dọn mình ra thánh, và dọn đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi cho thánh sạch, cùng cất những điều dơ dáy khỏi nơi đền thánh đi. Vì các tổ phụ chúng ta đã phạm tội, làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, lìa bỏ Ngài, ngảnh mặt khỏi nơi ngự của Đức Giê-hô-va, và xây lưng lại Ngài. Chúng lại đóng các hiên cửa, tắt các đèn, không xông hương và không dâng của lễ thiêu tại nơi thánh cho Đức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên.” (II Sử Ký 29:2-7).
Tình trạng của Đền Thờ vào lúc đó như thế nào? Ký thuật trong II Sử Ký cho biết người Do Thái đã “đóng các hiên cửa, tắt các đèn, không xông hương và không dâng của lễ thiêu tại nơi thánh cho Đức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên.” Những chi tiết này mô tả tình trạng thuộc linh đáng buồn của người Do Thái vào lúc đó.
Thực trạng đó nói lên điều gì? Thứ nhất, các hiên cửa Đền Thờ bị đóng nghĩa là dân chúng không còn được tự do đến thờ phượng Chúa nữa. Thứ hai, việc các ngọn đèn bị tắt nghĩa là dân chúng không còn tuân giữ mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh cho biết đèn trong Đền Thờ là biểu tượng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã truyền cho người Do Thái rằng một số đèn trong Đền Thờ phải được thắp sáng luôn luôn và một số đèn khác phải được thắp sáng suốt đêm: “Ngươi hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem đến dầu lọc ô-li-ve ép, đặng thắp đèn cho đèn sáng luôn luôn. Trong hội mạc, ở ngoài màn, trước hòm bảng chứng, A-rôn cùng các con trai người sẽ lo sửa soạn đèn, hầu cho trước mặt Đức Giê-hô-va đèn cháy luôn luôn từ tối cho đến sáng. Ấy là một luật đời đời cho dòng dõi dân Y-sơ-ra-ên phải giữ” (Xuất 27:20-21). “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu ô-li-ve ép, trong sạch, đặng thắp đèn, để giữ cho đèn cháy luôn luôn. A-rôn sẽ làm đèn đó trong hội mạc, ngoài bức màn che hòm bảng chứng, hầu cho đèn cháy luôn luôn, từ chiều tối đến sáng mai, trước mặt Đức Giê-hô-va; ấy là một lệ định đời đời cho dòng dõi các ngươi. A-rôn sẽ để các đèn trên chân đèn bằng vàng, cho đèn cháy luôn luôn trước mặt Đức Giê-hô-va.” (Lê-vi Ký 24:31-32). Dưới thời vua A-cha, những ngọn đèn trong Đền Thờ đã bị tắt mô tả tình trạng dân chúng không tuân giữ mạng lệnh mà Chúa đã truyền. Thêm vào đó, đèn trong Đền Thờ đã bị tắt cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời không còn ngự cùng dân của Ngài nữa. Thứ ba, Kinh Thánh cho biết nghi thức xông hương là biểu tượng cho lời cầu nguyện của những người tin Chúa. Tác giả sách Khải Huyền viết: “Những bình vàng đầy hương đó là những lời cầu nguyện của các thánh đồ” (Khải Huyền 5:8, 8:3-4). Dưới thời vua A-cha, người Do Thái không dâng hương nghĩa là họ không cầu nguyện, không tìm kiếm Đức Chúa Trời nữa. Thứ tư, dâng tế lễ là nghi thức thờ phượng căn bản của người Do Thái. Kinh Thánh cho biết có tế lễ được dâng hằng ngày, có tế lễ được dâng hằng tháng, có tế lễ được dâng hằng năm, có tế lễ được dâng vào những dịp đặc biệt. Mục đích của việc dâng tế lễ là đem người Do Thái đến gần với Đức Chúa Trời. Dưới triều đại của vua A-cha, người Do Thái không còn dâng tế lễ nữa nghĩa là họ đang xa cách Đức Chúa Trời.
Trước những thực trạng đáng buồn đó, vào ngày đầu năm vua Ê-xê-chia đã truyền cho các thầy tế lễ và người Lê-vi phải thanh tẩy chính họ, và rồi sau đó khởi sự công việc thanh tẩy Đền Thờ: “Người đòi những thầy tế lễ và người Lê-vi đến, hiệp chúng lại tại nơi phố phía đông, mà bảo rằng: Hỡi người Lê-vi, hãy nghe ta! Bây giờ khá dọn mình ra thánh, và dọn đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi cho thánh sạch, cùng cất những điều dơ dáy khỏi nơi đền thánh đi” (II Sử Ký 29:4-5). Công việc thanh tẩy Đền Thờ phải khởi đầu với những người lãnh đạo thuộc linh. Kinh Thánh cho biết họ đã khởi đầu công việc thanh tẩy vào ngày mồng một tháng Giêng và hoàn tất vào ngày 16 tháng Giêng: “Ngày mồng một tháng giêng, chúng khởi việc dọn đền cho sạch; qua ngày mồng tám tháng ấy, chúng đến nơi hiên cửa của Đức Giê-hô-va; trong tám ngày họ dọn đền của Đức Giê-hô-va cho sạch; và qua ngày mười sáu tháng giêng công việc làm xong.” (II Sử Ký 29:17).
Có lẽ vì Đền Thờ lúc đó bị ô uế quá nhiều cho nên công việc thanh tẩy Đền Thờ đã kéo dài lâu hơn dự định, vì vậy họ đã không thể hoàn tất trong vòng hai tuần trước Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Giêng như đã dự định. Hơn nữa, bởi vì lúc đó người Do Thái đã bỏ qua sự thờ phượng Chúa rất nhiều năm, cho nên cần phải có thêm thời gian để thông báo và kêu gọi những người từ những nơi xa trở lại, đến Đền Thờ để thờ phượng Chúa. Năm đầu của triều đại vua Ê-xê-chia là một năm đặc biệt. Vua Ê-xê-chia đã xin Chúa cho người Do Thái dự Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Hai thay vì ngày 14 tháng Giêng như luật định (II Sử Ký 30).
Có một điểm đáng lưu ý đó là khi dân chúng trở lại thờ phượng Chúa, họ đã dâng sinh tế rất nhiều. Điều đáng tiếc đó là sau nhiều năm bỏ bê sự thờ phượng Chúa, số thầy tế lễ còn lại rất ít không thể đảm trách kịp thời cho nhu cầu dâng sinh tế. Điều đáng mừng đó là những người Lê-vi đã dấn thân bước vào để phụ giúp các thầy tế lễ trong trách nhiệm của các thầy tế lễ. Kinh Thánh cho biết khi làm công việc này người Lê-vi đã giữ mình còn thánh sạch hơn các thầy tế lễ nữa. “Ê-xê-chia cất tiếng nói rằng: Bây giờ các ngươi đã biệt mình riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va; vậy hãy đến gần, đem những hi sinh và của lễ cảm tạ vào trong đền của Đức Giê-hô-va. Hội chúng bèn dẫn đến những hi sinh và của lễ cảm tạ; còn kẻ nào vui lòng thì đem dâng những của lễ thiêu. Số con sinh dùng về của lễ thiêu mà hội chúng đem đến là bảy mươi con bò đực, một trăm con chiên đực, và hai trăm con chiên con; họ dùng các thú đó làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. Cũng biệt riêng ra thánh sáu trăm con bò đực và ba ngàn con trừu. Song thầy tế lễ chỉ có ít quá, không đủ lột da các con sinh dùng về của lễ thiêu vì vậy anh em họ, là người Lê-vi, bèn giúp đỡ họ cho đến khi xong công việc, và những thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch; vì người Lê-vi có lòng thành dọn mình thánh sạch hơn những thầy tế lễ.” (II Sử Ký 29:31-34). Tình trạng tương tự đã xảy ra tại Việt Nam sau năm 1975. Lúc đó các mục sư còn lại rất ít, và hoạt động của các mục sư bị nhà cầm quyền hạn chế trong nhiều lĩnh vực. Khi đó rất nhiều tín hữu, vì lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh, đã bước vào gánh các công việc của Chúa, là những công việc mà trước kia chỉ có các mục sư mới được làm. Sự góp phần của những tín hữu này đã đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng của công việc Chúa tại Việt Nam trong giai đoạn đó.
Thanh tẩy Đền Thờ dưới thời vua Giô-si-a
Vào năm thứ 18 dưới đời vua Giô-si-a có một cuộc phục hưng khác đã xảy ra, và cuộc phục hưng này cũng liên quan đến việc thanh tẩy Đền Thờ. Trong hai đời vua trước là Ma-na-se và Am-môn, tình trạng đạo đức của dân Do Thái thật suy đồi. Tượng và miễu thờ tà thần Ba-anh và Át-tạt-tê đã được đem đặt trong Đền Thờ của Đức Chúa Trời (II Các Vua 23:4-7). Các tế sư của những tà thần đầy dẫy tại Giê-ru-sa-lem (II Các Vua 23:5-7). Việc thờ phượng các tà thần tại những nơi cao không phải chỉ xảy ra tại Giê-ru-sa-lem nhưng cũng xảy ra khắp cả nước (II Các Vua 23:8). Điều đáng buồn đó là có nhiều người là thầy tế lễ của Chúa nhưng lại phục vụ việc thờ phượng tà thần (II Các Vua 23:8-9). Họ dường như không hiểu gì về Lời Chúa và chức vụ của họ.
Cuộc phục hưng vào thời vua Giô-si-a đã khởi đầu sau khi vua Giô-si-a ra lệnh thanh tẩy Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem và Thầy tế lễ Hinh-kia tìm ra cuốn sách luật pháp đã được cất giữ trong Đền Thờ (II Các Vua 22:3-8). Ký thuật này cho thấy một chi tiết đáng buồn đó là trong những đời vua trước, mặc dù Lời Chúa có ngay tại trong Đền Thờ, nhưng không mấy ai đọc. Cuốn sách đã được đem cất, bị quên lãng, và phải mất 75 năm sau mới được tìm ra (II Các Vua 21:1, 21:19, 22:3-10).
Sau khi vua Giô-si-a được nghe đọc Lời Chúa (II Các Vua 22:10-11), vua truyền lệnh phải đọc Lời Chúa cho các nhà lãnh đạo Do Thái cũng như toàn thể dân Do Thái từ lớn đến nhỏ (II Các Vua 23:1-2). Sau khi dân Do Thái nghe và hiểu Lời của Chúa, họ đã trở lại với Chúa và tái lập giao ước với Ngài (II Các Vua 23:3). Vua Giô-si-a ra lệnh thanh tẩy không phải chỉ Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem nhưng cũng thanh tẩy tại những nơi thờ phượng khác trong khắp cả nước (II Các Vua 23:4-20). Và rồi sau đó cuộc phục hưng đã diễn ra (II Các Vua 23:21-27).
Đức Chúa Jesus thanh tẩy Đền Thờ
Nói đến việc thanh tẩy Đền Thờ, chúng ta không thể nào không nhắc đến việc Đức Chúa Jesus thanh tẩy Đền Thờ. Phúc Âm Giăng cho biết lúc Đức Chúa Jesus lên Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Vượt Qua, Ngài đã viếng thăm Đền Thờ (Giăng 2:13-22). Đức Chúa Jesus đã kinh ngạc khi thấy những người có trách nhiệm tại Đền Thờ vào lúc đó đã dùng Đền Thờ sai mục đích. Kinh Thánh cho biết Đền Thờ của Chúa được thiết lập để làm nơi cho dân chúng đến cầu nguyện: “Ta sẽ đem họ lên trên núi thánh Ta, làm cho họ vui mừng trong nhà cầu nguyện Ta. Của lễ thiêu và hi sinh họ dâng trên bàn thờ Ta, sẽ được nhận lấy; vì nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc. “ (Ê-sai 56:7). Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Đền Thờ vào lúc đó vì lợi ích cá nhân đã thương mãi hóa Đền Thờ. Họ đã sử dụng cơ sở Đền Thờ sai mục đích, cho phép dùng sân Đền Thờ làm chỗ mua bán. Các nhà lãnh đạo Đền Thờ thay vì cho dọn dẹp Đền Thờ thanh sạch để chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua như Đức Chúa Trời đã truyền (Ê-xê-chi-ên 54:18), họ lại cho phép mua bán trong sân Đền Thờ và làm ô uế Đền Thờ (Giăng 2:14). Tiên tri Giê-rê-mi đã nói trước về việc nầy như sau: “Vậy thì các ngươi xem nhà nầy, là nơi được xưng bằng danh Ta, như hang trộm cướp sao? Nầy, Ta, chính Ta xem thấy mọi điều đó, Đức Giê-hô-va phán vậy” (Giê-rê-mi 7:11). Đức Chúa Jesus đã trích dẫn lời của Tiên tri Ê-sai và Tiên tri Giê-rê-mi để nói với những nhà lãnh đạo Đền Thờ vào lúc đó rằng: “Có lời chép rằng: ‘Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện’, nhưng các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.” (Lu-ca 19:45-46; Ma-thi-ơ 21:12-13).
Có một điều chúng ta cần lưu ý đó là Kinh Thánh thường mô tả Đức Chúa Jesus là Đấng yêu thương và nhân từ, tuy nhiên phân đoạn Kinh Thánh tường thuật về việc Đức Chúa Jesus thanh tẩy Đền Thờ, Kinh Thánh đã mô tả Ngài với một hình ảnh thật khác hẳn. Đây là lần duy nhất Đức Chúa Jesus đã phải dùng vũ lực trong thời gian Ngài thi hành chức vụ trên đất. Đức Chúa Jesus đã phải làm như vậy bởi vì những người có trách nhiệm quản lý Đền Thờ đã dùng sai mục đích nhà của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh giải thích Đức Chúa Jesus đã thể hiện sự giận dữ để làm ứng nghiệm lời tiên tri được chép trong Cựu Ước: “Sự sốt sắng về đền Chúa tiêu nuốt tôi ” (Thi Thiên 69:9). Sứ đồ Giăng cho biết các môn đồ của Chúa đã nhớ lại lời Kinh Thánh và hiểu vì sao Ngài phải làm như vậy: “Các môn đồ của Ngài nhớ lại lời đã chép: ‘Lòng nhiệt thành về nhà của Ngài thiêu đốt tôi’.” (Giăng 2:17).
Kinh Thánh cho biết, sau khi Đức Chúa Jesus nói với những người có trách nhiệm trong Đền Thờ rằng họ đã dùng Đền Thờ sai mục đích, các nhà lãnh đạo Do Thái đã tìm cách giết Đức Chúa Jesus (Lu-ca 19:45-47; Mác 11:15-18). Các lãnh đạo Do Thái đã quyết định giết Đức Chúa Jesus để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của họ, nhưng âm mưu hiểm độc đó đã được ngụy trang với lý do tốt đẹp là để bảo vệ đất nước và bảo vệ Đền Thờ (Giăng 11:47-53). Tuy nhiên điều mà các nhà lãnh đạo Do Thái không biết đó là sau khi họ giết Đức Chúa Jesus, Đức Chúa Trời đã không còn chấp nhận Đền Thờ mà Chúa đã giao cho họ trách nhiệm coi sóc nữa. Vào năm 70 S.C., quân đội La Mã đã vây Giê-ru-sa-lem và hủy diệt Đền Thờ thứ hai của người Do Thái. Đền Thờ của người Do Thái tại Giê-ru-sa-lem đã bị hủy diệt từ đó cho đến nay. Vì vậy giờ đây, dù có muốn hay không, người Do Thái không thể nào thực hiện mạng lệnh thanh tẩy Đền Thờ vào ngày đầu năm như Đức Chúa Trời đã truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên.
Thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh
Mặc dầu Đền Thờ vật chất không còn nữa, nhưng Kinh Thánh cho biết Đền Thờ thuộc linh vẫn tồn tại. Sứ đồ Phao-lô nhắc nhở người tin Chúa rằng mỗi người chúng ta là một Đền Thờ của Đức Chúa Trời: “Anh em không biết rằng chính anh em là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong anh em hay sao?“ (I Cô-rinh-tô 3:16). Nhìn từ một phương diện khác, mỗi chúng ta là người có trách nhiệm quản lý Đền Thờ của Đức Chúa Trời.
Đền Thờ vật chất có thể bị ô uế, Đền Thờ thuộc linh cũng có thể bị ô uế. Sứ đồ Phao-lô lưu ý người tin Chúa rằng chúng ta có thể làm ô uế Đền Thờ của Đức Chúa Trời qua rất nhiều việc, mà một trong những điều đó là phạm tội gian dâm. Sứ đồ Phao-lô khuyên những người tin Chúa thay vì dùng Đền Thờ thuộc linh là thân thể của mình cho những dục vọng cá nhân, người tin Chúa nên dùng thân thể của mình làm vinh danh Đức Chúa Trời:“Hãy tránh sự dâm dục. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình. Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời.“ (I Cô-rinh-tô 6:18-20).
Kinh Thánh cho biết một trong những việc phạm tội trong thân thể, đó là việc lập gia đình với những người không tin Chúa. Việc dụ dỗ người tin Chúa lập gia đình với người không tin Chúa là một âm mưu thâm độc tinh vi mà một tiên tri sa ngã là Ba-la-am đã cố vấn cho vua Ba-lác nhằm làm hại cộng đồng những người tin Chúa (Khải Huyền 2:14). Ba-la-am đã cố vấn cho vua Ba-lác rằng khi con dân của Chúa làm sai mạng lệnh của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ không ở cùng họ và không ban phước cho họ, thì họ sẽ suy yếu, và lúc đó ai cũng có thể làm hại cộng đồng con dân của Chúa được.
Tuy nhiên có một số thế hệ người Do Thái không biết Lời Chúa cho nên không hiểu sự nguy hại của vấn đề nầy. Kinh Thánh có ghi lại một cuộc thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh đã kéo dài nhiều tháng và kết thúc vào ngày đầu năm, liên hệ đến việc này như sau.
Ký thuật trong sách Nê-hê-mi cho biết vào thời hậu lưu đày, dân Do Thái đã yêu cầu Ê-xơ-ra, một học giả về Kinh Thánh, đọc Lời Chúa cho họ. Điều này đã xảy ra vào ngày 1 tháng Bảy (Nê-hê-mi 8:2). Sau khi nghe đọc Lời Chúa và hiểu được ý muốn của Chúa, một cuộc phục hưng đã diễn ra. Vài tháng sau, một số người Do Thái nhận biết tội lỗi của họ, đã đến xưng tội với Ê-xơ-ra về việc họ lập gia đình với những người không tin Chúa (Ê-xơ-ra 9:1-2; 10:1-4). Kinh Thánh cho biết lúc đó tình trạng lập gia đình với những người không tin Chúa đã lan tràn trong dân Do Thái. Các nhà lãnh đạo Do Thái đã giúp dân chúng giải quyết tình trạng này. Công việc thống kê những người phạm tội đã được tiến hành từ ngày 24 tháng Chín, kéo dài hơn ba tháng, và đến ngày mồng một tháng Giêng năm sau thì hoàn tất (Ê-xơ-ra 10:9-17).
Kết quả cuộc điều tra cho thấy một điều đáng tiếc đó là trong số những người phạm tội có cả một số thầy tế lễ, những người Lê-vi, và những người ca hát phục vụ trong Đền Thờ (Ê-xơ-ra 10:17-24). Khi những người có trách nhiệm hướng dẫn đời sống thuộc linh của con dân Chúa phạm tội, thì không có gì ngạc nhiên khi tình trạng thuộc linh của con dân Chúa sa sút. Điều đáng tiếc đó là tình trạng tương tự đã tái diễn vài năm sau đó dưới thời Nê-hê-mi vào lúc ông vắng mặt tại Giê-ru-sa-lem (Nê-hê-mi 13:23-29). Khi Nê-hê-mi trở lại Do Thái, ông đã giải quyết tình trạng này (Nê-hê-mi 13:23-29).
Kinh Thánh cho biết những cuộc thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh nêu trên đã xảy ra lúc cuộc phục hưng dưới thời của Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi diễn ra. Kinh Thánh cũng cho biết cuộc phục hưng dưới thời của Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi có những điểm tương đồng với các cuộc phục hưng dưới thời của vua Ê-xê-chia và vua Giô-si-a: Đó là Lời Chúa được giảng giải cho mọi người, mọi thế hệ, mọi tầng lớp trong dân chúng, khiến họ hiểu được. Vì dân chúng quá đông và họ cần được hiểu Lời Chúa cách đúng đắn, nhu cầu này đã được đáp ứng khi những người Lê-vi hiểu biết Kinh Thánh được phép góp phần với các thầy tế lễ trong việc giảng dạy Lời Chúa: “Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, A-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, Phê-la-gia và người Lê-vi giải thích cho dân chúng hiểu luật pháp, còn dân chúng vẫn đứng tại chỗ. Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời rồi giải nghĩa cho người ta hiểu lời họ đọc. Nê-hê-mi, quan tổng đốc, E-xơ-ra thầy tế lễ cũng là thầy thông giáo, cùng người Lê-vi dạy dỗ dân chúng” (Nê-hê-mi 8:7-9).
Làm thế nào để thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh
Đền Thờ vật chất cần được thanh tẩy, Đền Thờ thuộc linh cũng cần được thanh tẩy, tuy nhiên làm thế nào để có thể thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh?
Đức Chúa Jesus cho biết đời sống của người tin Chúa có thể được thanh tẩy nhờ lẽ thật hay chân lý: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh” (Giăng 17:17).
Lẽ thật hay chân lý có thể giúp thanh tẩy đời sống thuộc linh của người tin Chúa, nhưng “Lẽ thật là gì?”. Đây chính là câu hỏi mà Phi-lát đã hỏi Đức Chúa Jesus (Giăng 18:38). Kinh Thánh đã trả lời cho câu hỏi này như sau:
Thứ nhất, Đức Chúa Jesus giải thích: “Lời Cha tức là lẽ thật“ (Giăng 17:17). Kinh Thánh cho biết Lời Chúa có quyền năng thanh tẩy đời sống của người tin Chúa. Tiến trình thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh bằng Lời Chúa có thể được thực hiện qua việc đối diện với Lời Chúa và làm theo Lời của Ngài. Sứ đồ Gia-cơ đã giải thích về tiến trình này như sau: “Hãy từ bỏ những điều ô uế và quá nhiều gian ác; hãy khiêm tốn tiếp nhận Lời đã được trồng vào, là Lời có thể cứu linh hồn anh em. Hãy là những người làm theo Lời, đừng chỉ là những người nghe, mà lừa dối chính mình. Thật vậy, vì ai chỉ nghe Lời mà không làm theo thì giống như một người nhìn mặt mình trong gương; người ấy nhìn mặt mình xong, rồi đi, và lập tức quên mình ra thể nào. Nhưng ai nhìn kỹ vào luật toàn hảo, là luật đem lại tự do, và cứ tiếp tục trong đó, không phải là người nghe rồi quên, nhưng là người thực hành, người đó sẽ được phước trong việc làm của mình.” (Gia-cơ 1:21-25).
Thứ hai, Đức Chúa Jesus phán Ngài chính là chân lý – hay là lẽ thật: “Đức Chúa Jesus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống“ (Giăng 14:6). Đức Chúa Jesus là lẽ thật cho nên Ngài có quyền thanh tẩy đời sống của người tin Chúa. Chính vì lý do này, tác giả thơ Hê-bơ-rơ đã giải thích rằng: “Chúng ta được thánh hóa nhờ sự dâng thân thể của Đức Chúa Jesus Christ một lần đủ cả.“ (Hê-bơ-rơ 10:10). Sứ đồ Phao-lô giải thích thêm: “Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh, để khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch, đặng tỏ ra hội thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được ở trước mặt Ngài.” (Ê-phê-sô 5:26-28). Trong những câu Kinh Thánh này, Sứ đồ Phao-lô nói rõ rằng Đức Chúa Jesus là Đấng làm cho Hội Thánh được nên thánh, nhưng ông cũng nói thêm “Đạo làm cho Hội tinh sạch”. Trong nguyên văn Hy Lạp, chữ “Đạo” trong câu Kinh Thánh này là ῥήματι (rhēmati) – nghĩa là lời nói của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô đã giải thích cho các tín hữu tại Ê-phê-sô rằng lời của Chúa làm cho Hội Thánh được tinh sạch. Sứ điệp mà ông chia xẻ đã căn cứ trên lời Đức Chúa Jesus dạy: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh – lời Cha tức là lẽ thật ” (Giăng 17:17), như đã được nhắc đến ở phần trên.
Thứ ba, Đức Chúa Jesus cũng cho biết Đức Thánh Linh chính là Thần Lẽ Thật: “Đấng Yên ủi sẽ đến, là Đấng Ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha“ (Giăng 15:26), vì vậy Đức Thánh Linh cũng là Đấng thánh hóa người tin Chúa. Trong bức thư gởi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô, Sứ đồ Phao-lô đã giải thích rằng Đức Thánh Linh đã phối hợp với Đức Chúa Jesus trong việc thánh hóa người tin Chúa: “Trước kia anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế; nhưng nhơn danh Đức Chúa Jesus Christ, và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, thì anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi.” (I Cô-rinh-tô 6:11). Sứ đồ Phao-lô cũng nói thêm: Đức Thánh Linh không chỉ thánh hóa người Do Thái nhưng Ngài cũng là Đấng thánh hóa các dân ngoại: “Tôi làm đặc sứ của Ðức Chúa Jesus Christ cho các dân ngoại, đặc trách về Phúc Âm của Ðức Chúa Trời, để các dân ngoại có thể trở thành một lễ vật được chấp nhận, được thánh hóa bởi Ðức Thánh Linh.” (Rô-ma 15:16).
Thứ tư, thêm vào đó Kinh Thánh cũng cho biết Đức Chúa Trời là chân lý, hay bản chất của Đức Chúa Trời là chân lý (Rô-ma 3:7; Ê-phê-sô 4:24). Vì vậy, Đức Chúa Trời cũng là Đấng thánh hóa những người tin Ngài. Kinh Thánh cho biết sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình và giết người, ông đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời như sau: “Cầu Chúa hãy rửa tôi, thì tôi sẽ nên trắng hơn tuyết” (Thi Thiên 51:7). Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho ông và thanh tẩy cuộc đời của ông. Và sau đó, Đa-vít đã cầu xin Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi Thiên 51:10). Trong Tân Ước, Sứ đồ Phao-lô đã cầu chúc cho các tín hữu được thánh hóa bởi Đức Chúa Trời: “Cầu xin chính Đức Chúa Trời của sự bình an, thánh hóa anh em hoàn toàn; và toàn thể tinh thần, linh hồn, và thân thể của anh em được gìn giữ, không chỗ trách được, khi Chúa chúng ta là Đức Chúa Jesus Christ quang lâm.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23).
Như đã nói ở trên, Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jesus, Đức Thánh Linh và Lời Chúa chính là lẽ thật, và có năng quyền để thanh tẩy đời sống thuộc linh của người tin Chúa. Tuy nhiên Kinh Thánh cũng cho biết có một số người không muốn làm theo lẽ thật. Điều này xảy ra trong thời Cựu Ước cũng như trong thời đại của chúng ta. Trong thời Cựu Ước, Tiên tri Ê-sai đã viết: Họ “nói với kẻ tiên kiến rằng: Đừng tiên kiến làm chi! nói với kẻ tiên tri rằng: Đừng nói tiên tri về lẽ thật! Hãy nói cho chúng tôi những điều vui thú, hãy lấy những sự huyễn hoặc bảo chúng tôi!” (Ê-sai 30:10). Trong Tân Ước, Sứ đồ Phao-lô cảnh báo: “Vì sẽ có lúc người ta không muốn nghe giáo lý lành mạnh, nhưng muốn theo dục vọng của mình, quy tụ quanh mình các giáo sư giảng những lời làm đã ngứa lỗ tai. Họ sẽ ngoảnh tai không muốn nghe chân lý, nhưng hướng tai về những chuyện hoang đường.” (II Ti-mô-thê 4:3-4). Tuy nhiên Sứ đồ Giăng đã khuyến khích những người tin Chúa như sau: “Chúng ta biết mình là thuộc về lẽ thật, hãy giục lòng vững chắc ở trước mặt Ngài” (I Giăng 3:19). Cầu xin Chúa giúp mỗi người tin Chúa hiểu biết Chúa là ai, sống theo lời dạy của Chúa, để được thanh tẩy bởi chính Chúa và Lời của Ngài.
Tóm Lược
Đức Chúa Trời đã truyền cho người Do Thái phải thanh tẩy Đền Thờ vào ngày đầu năm. Đây là một phong tục Tết được ghi lại trong Kinh Thánh – nhưng thường bị lãng quên. Kinh Thánh cho biết việc thanh tẩy Đền Thờ trong lịch sử của người Do Thái đã đưa đến những cơn phục hưng. Ngày nay Đền Thờ vật chất tại Do Thái không còn nhưng Sứ đồ Phao-lô đã nhắc nhở người tin Chúa rằng mỗi người tin Chúa là một Đền Thờ của Đức Chúa Trời, vì vậy Đền Thờ thuộc linh cũng cần được thanh tẩy.
Kinh Thánh cho biết việc thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh được thực hiện bởi Lời của Đức Chúa Trời, bởi Đức Thánh Linh, bởi Đức Chúa Jesus, và chính Đức Chúa Trời. Giống như việc thanh tẩy Đền Thờ vật chất đã khởi đầu cho những cơn phục hưng trong lịch sử của dân Do Thái, việc thanh tẩy Đền Thờ thuộc linh cũng là khởi đầu cho sự phục hưng trong đời sống cá nhân và trong Hội Thánh.
Noi gương những cuộc thanh tẩy Đền Thờ dưới Ê-xê-chia, Giô-si-a, Ê-xơ-ra và Nê-hê-mi, chúng ta hãy nhìn lại chính mình. Có những ô dơ nào trong cuộc sống cần phải được thanh tẩy, có những sai lầm nào cần phải từ bỏ, có những hư hỏng nào cần được sửa chữa, có những mạng lệnh nào Chúa truyền cần phải được thực hiện, có những tà giáo hay thói tục nào từ bên ngoài không đúng ý Chúa đã xen vào Hội Thánh cần được cất bỏ, có những điều mới mẻ nào cần phải xây dựng cho Nhà Chúa. Chúa muốn bạn thực hiện những điều đó trong năm mới nầy.
Cầu xin Chúa giúp bạn biết được ý Chúa và nương cậy nơi Chúa để làm theo ý muốn của Ngài.
Phước Nguyên
Tháng 1/2022
Thư Viện Tin Lành (2022)
www.thuvientinlanh.org
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.