Thư Viện Tin Lành: Trang Nhà » Âm Nhạc » J.S. Bach: Sự Thống Khổ Của Chúa Theo Phúc Âm Giăng

J.S. Bach: Sự Thống Khổ Của Chúa Theo Phúc Âm Giăng

Tác phẩm: Sự Thống Khổ Của Chúa Theo Phúc Âm Giăng
Nguyên tác: The Passion According to John (1724)
Tác giả: Johann Sebastian Bach (1685-1750)
Trình bày: English Baroque Soloists & Monteverdi Choir
Nhạc trưởng: Sir John Eliot Gardiner
Mark Padmore – Tenor, Evangelist;
Peter Harvey – Bass, Christus;
Katherine Fuge – Soprano;
Robin Blaze – Counter-tenor;
Nicholas Mulroy – Tenor;
Jeremy Budd – Tenor;
Matthew Brook – Bass

Khái Quát

Johannes-Passion là một tác phẩm thánh nhạc do  Johann Sebastian Bach (1685-1750), một nhạc sĩ người Đức, sáng tác.  Nội dung của tác phẩm trình bày sự hy sinh của Đức Chúa Jesus theo ký thuật của Phúc Âm Giăng.  Tựa đề của tác phẩm được dịch sang tiếng Việt là Sự Thống Khổ Của Chúa Theo Phúc Âm Giăng. 

Ngoài phần Kinh Thánh được ghi lại trong Phúc Âm Giăng, Bach cũng trích dẫn vài câu trong Phúc Âm Ma-thi-ơ để thuật lại việc Phi-e-rơ chối Chúa và những chi tiết về sự  an táng Chúa.  Bên cạnh việc trích dẫn bản dịch Kinh Thánh tiếng Đức, do Martin Luther phiên dịch, để làm lời ca, Bach đã dùng một số thánh ca đã được phổ biến trong Hội Thánh Lutheran vào lúc đó để dùng vào những cảnh khác nhau trong tác phẩm Johannes-Passion.

Johannes-Passion được trình bày lần đầu tiên vào dịp Lễ Thương Khó ngày 7/4/1724 tại nhà thờ Tin Lành St. Nicholas, Leipzig, Đức.  Trong những năm sau đó, Bach đã hiệu đính Johannes-Passion vài lần vào các năm 1725, 1732, và 1749.  Trong những lần sửa đổi đó, Bach đã thêm vài thánh ca, sửa lại phần mở đầu, soạn lại hòa âm cho một số ca khúc. Tuy nhiên, phần lớn các buổi công diễn vào thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, các nhạc trưởng vẫn thích dùng nguyên tác được biên soạn vào năm 1724.

Bố Cục

Johannes-Passion gồm 40 tiểu khúc, được chia làm 2 phần với 6 cảnh:

Phần I
1. Chúa Bị Phản Bội Và Bị Bắt (Giăng 18:1–14).
2. Chúa Bị Phi-e-rơ Chối (Giăng 18:15–27, Ma-thi-ơ 26:75)

Phần II
3. Chúa Bị Phỏng Vấn Và Vu Cáo (Giăng 18:28–40, 19:1)
4. Chúa Bị Kết Án Và Xử Hình (Giăng 19:2–22)
5. Chúa Hy Sinh (John 19:23–30)
6. Chúa Được Chôn Cất (Ma-thi-ơ 27:51–52, Giăng 19:31–42)

Nội Dung

Lời thánh ca trong tiếng Đức được lượt dịch sang tiếng Việt như sau:

I. Chúa Bị Phản Bội Và Bị Bắt

1. Chorus (00:00)
Herr, unser Herrscher,
dessen Ruhm
in allen Landen herrlich ist!
zeig uns durch deine Passion,
daß du, der wahre Gottessohn,
zu aller Zeit,
auch in der größten Niedrigkeit,
verherrlicht worden bist!

2.a Recitative (09:30)
Evangelist:
Jesus ging mit seinen Jüngern über den Bach Kidron, da war ein Garten, darein ging Jesus und seine Jünger. Judas aber, der ihn verriet, wußte den Ort auch, denn Jesus versammlete sich oft daselbst mit seinen Jüngern. Da nun Judas zu sich hatte genommen die Schar und der Hohenpriester und Pharisäer Diener, kommt er dahin mit Fackeln, Lampen und mit Waffen. Als nun Jesus wußte alles, was ihm begegnen sollte, ging er hinaus und sprach zu ihnen:

Jesus:
Wen suchet ihr?

Evangelist:
Sie antworteten ihm:

2.b Chorus
Soldiers:
Jesum von Nazareth!

2.c Recitative
Evangelist:
Jesus spricht zu ihnen:

Jesus:
Ich bin’s.

Evangelist:
Judas aber, der ihn verriet, stund auch bei ihnen. Als nun Jesus zu ihnen sprach: “Ich bin’s,” wichen sie zurücke und fielen zu Boden. Da fragete er sie abermal:

Jesus:
Wen suchet ihr?

Evangelist:
Sie aber sprachen:

2.d Chorus
Soldiers:
Jesum von Nazareth!

2.e Recitative
Evangelist:
Jesus antwortete:

Jesus:
Ich hab’s euch gesagt, daß ich’s sei, suchet ihr denn mich, so lasset diese gehen!

3. Chorale (11:53)
O große Lieb, o Lieb ohn alle Maße,
Die dich gebracht
auf diese Marterstraße
Ich lebte mit der Welt
in Lust und Freuden,
Und du mußt leiden.

4. Recitative (12:38)
Evangelist:
Auf daß das Wort erfüllet würde, welches er sagte: Ich habe der keine verloren, die du mir gegeben hast. Da hatte Simon Petrus ein Schwert und zog es aus und schlug nach des Hohenpriesters Knecht und hieb ihm sein recht Ohr ab; und der Knecht hieß Malchus. Da sprach Jesus zu Petro:

Jesus:
Stecke dein Schwert in die Scheide! Soll ich den Kelch nicht trinken, den mir mein Vater gegeben hat?

5. Chorale (13:45)
Dein Will gescheh,
Herr Gott, zugleich
Auf Erden wie im Himmelreich.
Gib uns Geduld in Leidenszeit,
Gehorsam sein in Lieb und Leid;
Wehr und steur
allem Fleisch und Blut,
Das wider deinen Willen tut!

6. Recitative (14:32)
Evangelist:
Die Schar aber und der Oberhauptmann und die Diener der Jüden nahmen Jesum und bunden ihn und führeten ihn aufs erste zu Hannas, der war Kaiphas Schwäher, welcher des Jahres Hoherpriester war. Es war aber Kaiphas, der den Jüden riet, es wäre gut, daß ein Mensch würde umbracht für das Volk.

7. Aria (Alto) (15:20)
Von den Stricken meiner Sünden
Mich zu entbinden,
Wird mein Heil gebunden.
Mich von allen Lasterbeulen
Völlig zu heilen,
Läßt er sich verwunden.

1. Hợp Xướng
Lạy Chúa là Đấng Tể Trị chúng con,
sự chúc tụng Ngài
được tôn ngợi khắp nơi!
Xin bày tỏ cho chúng con sự thương xót của Ngài,
mà Ngài, là Con thật của Đức Chúa Trời,
luôn luôn,
dù trong lúc bị sỉ nhục nhất,
vẫn được tôn vinh!

2.a Trích Dẫn (Giăng 18:1-8)
Nhà Truyền Giảng:
Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đi qua bên kia suối Kết-rôn. Tại đó có một cái vườn; Chúa và các môn đồ của Ngài vào vườn đó.  Tuy nhiên, Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng biết chỗ đó vì Ðức Chúa Jesus thường họp với các môn đồ Ngài tại nơi này. Lúc đó, Giu-đa dẫn một đội lính, cùng thuộc hạ của các trưởng tế và những người Pha-ri-si.  Họ mang đèn, đuốc, và vũ khí đến đó. Vì Ðức Chúa Jesus biết mọi việc sắp xảy đến với Ngài, Ngài bước tới và hỏi:

Jesus:
Các ngươi tìm ai?

Nhà Truyền Giảng:
Họ trả lời Ngài:

2.b Hợp xướng
Những người lính:
Jesus, người Nazareth!

2.c Trích dẫn
Nhà Truyền Giảng:
Ðức Chúa Jesus nói với họ:

Jesus:
Chính Ta đây.

Nhà Truyền Giảng:
Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng đứng chung với họ. Khi Ngài phán với họ “Chính Ta đây,” họ lùi lại và té xuống đất. Ngài lại hỏi họ:


Jesus:

Các ngươi tìm ai?

Nhà Truyền Giảng:
Họ trả lời Ngài:

2.d Hợp xướng
Những người lính:
Jesus, người Nazareth!

2.e Trích dẫn
Nhà Truyền Giảng:
Ðức Chúa Jesus trả lời:

Jesus:
Ta đã nói với các ngươi rằng chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm Ta, hãy để những người nầy đi!

3. Hợp Xướng
Ôi tình yêu tuyệt vời, tình yêu không thể đo lường,
đã đem Ngài đến
con đường thống khổ này!
Con đã sống trong thế giới
của lạc thú và niềm vui,
còn Ngài phải chịu đau thương.

4. Trích dẫn
Nhà Truyền Giảng:
Điều này làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán: “Con không làm mất một người nào Cha đã ban cho Con.”  Lúc ấy, Si-môn Phi-e-rơ có một thanh gươm; ông rút ra, tấn công một đầy tớ của vị thượng tế và chém đứt tai phải người này. Người đầy tớ ấy tên là Man-chu.  Ðức Chúa Jesus bảo Phi-e-rơ:

Jesus:
Hãy tra gươm ngươi vào vỏ! Chén mà Cha đã trao cho Ta, Ta không uống sao?

5. Hợp xướng
Nguyện ý Ngài sẽ được thành tựu,
Lạy Đức Chúa Trời,
trên trái đất cũng như trên thiên quốc.
Xin giúp chúng con kiên nhẫn trong lúc khổ đau,
vâng phục cả khi được yêu thương lẫn trong bất hạnh;
biết kiềm chế
tất cả những điều thuộc về huyết và thịt
có thể chống lại ý muốn của Ngài!

6. Trích dẫn
Nhà Truyền Giảng:
Toán lính cùng viên sĩ quan chỉ huy, và các thuộc hạ của người Do-thái bắt Ðức Chúa Jesus, trói lại. Trước hết, họ giải Ngài đến An-nát, vì ông ấy là nhạc phụ của Cai-a-pha, vị thượng tế năm đó. – Cai-a-pha là người đã khuyên dân Do-thái rằng thà một người chịu chết cho toàn dân thì hơn.

7. Aria (Alto)
Vì những gông cùm của tội lỗi tôi,
để phóng thích tôi
Đấng Cứu Chuộc tôi phải bị xiềng xích.
Để cứu chữa tôi hoàn toàn
khỏi những ung nhọt xấu xa,
Ngài khiến chính Ngài phải chịu thương tích.

 

II. Chúa Bị Phi-e-rơ Chối

8. Recitative (19:33)
Evangelist:
Simon Petrus aber folgete Jesu nach und ein ander Jünger.

9. Aria (Soprano) (19:46)
Ich folge dir gleichfalls
mit freudigen Schritten
Und lasse dich nicht,
Mein Leben, mein Licht.
Befördre den Lauf
Und höre nicht auf,
Selbst an mir zu ziehen,
Zu schieben, zu bitten.

10. Recitative (23:27)
Evangelist:
Derselbige Jünger war dem Hohenpriester bekannt und ging mit Jesu hinein in des Hohenpriesters Palast. Petrus aber stund draußen für der Tür. Da ging der andere Jünger, der dem Hohenpriester bekannt war, hinaus und redete mit der Türhüterin und führete Petrum hinein. Da sprach die Magd, die Türhüterin, zu Petro:

Maid:
Bist du nicht dieses Menschen Jünger einer?

Evangelist:
Er sprach:

Peter:
Ich bin’s nicht.

Evangelist:
Es stunden aber die Knechte und Diener und hatten ein Kohlfeu’r gemacht (denn es war kalt) und wärmeten sich. Petrus aber stund bei ihnen und wärmete sich. Aber der Hohepriester fragte Jesum um seine Jünger und um seine Lehre. Jesus antwortete ihm:

Jesus:
Ich habe frei öffentlich geredet für der Welt. Ich habe allezeit gelehret in der Schule und in dem Tempel, da alle Jüden zusammenkommen, und habe nichts im Verborgnen geredt. Was fragest du mich darum? Frage die darum, die gehöret haben, was ich zu ihnen geredet habe! Siehe, dieselbigen wissen, was ich gesaget habe.

Evangelist:
Als er aber solches redete, gab der Diener einer, die dabeistunden, Jesu einen Backenstreich und sprach:

Servant:
Solltest du dem Hohenpriester also antworten?

Evangelist:
Jesus aber antwortete:

Jesus:
Hab ich übel geredt, so beweise es, daß es böse sei, hab ich aber recht geredt, was schlägest du mich?

11. Chorus (26:31)
Wer hat dich so geschlagen,
Mein Heil, und dich mit Plagen
So übel zugericht’?
Du bist ja nicht ein Sünder
Wie wir und unsre Kinder,
Von Missetaten weißt du nicht.
Ich, ich und meine Sünden,
Die sich wie Körnlein finden
Des Sandes an dem Meer,
Die haben dir erreget
Das Elend, das dich schläget,
Und das betrübte Marterheer.

12.a Recitative (27:53)
Evangelist:
Und Hannas sandte ihn gebunden zu dem Hohenpriester Kaiphas. Simon Petrus stund und wärmete sich, da sprachen sie zu ihm:

12.b Chorus
Servants
Bist du nicht seiner Jünger einer?

12.c Recitative
Evangelist:
Er leugnete aber und sprach:

Peter:
Ich bin’s nicht!

Evangelist:
Spricht des Hohenpriesters Knecht’ einer, ein Gefreundter des, dem Petrus das Ohr abgehauen hatte:

Servant:
Sahe ich dich nicht im Garten bei ihm?

Evangelist:
Da verleugnete Petrus abermal, und alsobald krähete der Hahn. Da gedachte Petrus an die Worte Jesu und ging hinaus und weinete bitterlich.

13. Aria (Tenor) (30:06)
Ach, mein Sinn,
Wo willt Du endlich hin,
Wo soll ich mich erquicken?
Bleib ich hier,
Oder wünsch ich mir berg und Hügel
Auf den Rücken?
Bei der Welt ist gar kein Rat,
Und im Herzen stehn
Die Schmerzen meiner Missetat,
Weil der Knecht den Herrn verleugnet hat.

14. Chorale (32:35)
Petrus, der nicht denkt zurück,
Seinen Gott verneinet,
Der doch auf ein’ ernsten Blick
Bitterlichen weinet.
Jesu, blicke mich auch an,
Wenn ich nicht will büßen;
Wenn ich Böses hab getan,
Rühre mein Gewissen!

8. Trích dẫn
Evangelist:
Si-môn Phi-e-rơ và một môn đồ khác đi theo Ðức Chúa Jesus.

9. Aria (Soprano)
Con sẽ đi theo Ngài
với bước chân hớn hở
và sẽ không từ bỏ Ngài,
là Sự Sống, là Ánh Sáng của con.
Hãy mở đường!
Đừng ngăn trở,
nhưng hãy kéo con,
xin đem con đến bên Ngài.

10. Trích dẫn
Evangelist:
Nhờ quen biết với vị thượng tế, môn đồ đó có thể theo Ðức Chúa Jesus vào sân của dinh thượng tế nhưng Phi-e-rơ phải đứng bên ngoài cổng. Người môn đồ quen biết với vị thượng tế đi ra nói với phụ nữ giữ cửa, và đem Phi-e-rơ vào. Cô gái, giữ cửa, nói với Phi-e-rơ:

Maid:
Không phải ông là một môn đồ của người đó sao?

Evangelist:
Ông trả lời:

Peter:
Không phải tôi.

Evangelist:
Vì trời lạnh nên các đầy tớ và các thuộc hạ nhóm một đống lửa rồi đứng quanh để sưởi ấm; Phi-e-rơ cũng đứng sưởi ấm với họ. Bấy giờ vị thượng tế hạch hỏi Ðức Chúa Jesus về các môn đồ Ngài và về những lời dạy của Ngài. Ðức Chúa Jesus trả lời:

Jesus:
Ta từng nói công khai giữa thiên hạ; Ta thường giảng dạy trong các hội đường và đền thờ, là những nơi người Do-thái tụ họp; Ta chẳng nói lén lút điều gì. Tại sao ngươi hỏi Ta? Hãy hỏi những người đã nghe Ta nói với họ. Họ biết Ta đã nói những gì!


Evangelist:

Khi Ðức Chúa Jesus đã nói như vậy, một người trong đám thuộc hạ đứng gần đó tát Ðức Chúa Jesus một cái và nói:

Servant:
Trả lời thượng tế như vậy sao?

Evangelist:
Ðức Chúa Jesus trả lời:

Jesus:
Nếu Ta nói sai, hãy chỉ ra chỗ sai của Ta; còn nếu Ta nói đúng, tại sao ngươi đánh Ta?

11. Hợp xướng
Ai đã đánh Ngài như vậy,
Đấng Cứu Chuộc của con – và với những tra tấn
đánh Ngài tàn nhẫn như vậy sao?
Nhưng, Ngài không phải là một tội nhân
như chúng con và dòng dõi chúng con,
Ngài không hề làm một điều sai lầm.
Con, chính con và tội lỗi của con,
nhiều vô kể như những hạt
cát trên bờ biển,
đã trút trên Ngài
những khốn khổ đã hành hạ Ngài,
và nỗi đớn đau thống khổ này.

12.a Trích dẫn
Evangelist:
An-nát sai giải Ðức Chúa Jesus, vẫn bị trói, đến Cai-a-pha, vị thượng tế đương nhiệm.  Lúc Si-môn Phi-e-rơ đang đứng sưởi ấm, có người hỏi ông:

12.b Hợp xướng
Servants
Ông cũng là một môn đồ của ông ấy phải không?

12.c Trích dẫn
Evangelist:
Ông chối và nói:

Peter:
Không phải tôi!

Evangelist:
Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, là bà con với người bị Phi-e-rơ chém đứt tai, nói:

Servant:
Chẳng phải tôi đã thấy ông trong vườn với người đó sao?

Evangelist:
Phi-e-rơ lại chối một lần nữa; ngay lúc đó, gà cất tiếng gáy. Phi-e-rơ nhớ lại những lời Ðức Chúa Jesus đã phán. Ông đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.

13. Aria (Tenor)
Ô!  Những nhận thức của ta,
các ngươi đã đi đâu rồi!
Ta phải ăn năn từ đâu?
Ta nên ở đây,
hay mong cho những núi đồi
lấp trên lưng mình?
Không chốn nào trên thế giới này đem lại niềm an ủi,
trong khi lòng ta
quặn thắt với những sai lầm,
bởi vì kẻ đầy tớ đã chối bỏ Chúa của mình.

14. Hợp xướng
Phi-e-rơ! Đừng nghĩ lại chuyện cũ
đã chối Chúa của mình,
nhưng nhìn thấu ánh mắt Ngài,
rồi khóc trong cay đắng.
Chúa Jesus! Xin hãy nhìn con,
nếu con không ăn năn;
nếu con đã sai phạm,
xin khuấy động lương tri của con!

III. Chúa Bị Phỏng Vấn Và Vu Cáo

15. Chorale (33:42)
Christus, der uns selig macht,
Kein Bös’ hat begangen,
Der ward für uns in der Nacht
Als ein Dieb gefangen,
Geführt für gottlose Leut
Und fälschlich verklaget,
Verlacht, verhöhnt und verspeit,
Wie denn die Schrift saget.

16. Recitative (34:48)
Evangelist:
Da führeten sie Jesum von Kaiphas vor das Richthaus, und es war frühe. Und sie gingen nicht in das Richthaus, auf daß sie nicht unrein würden, sondern Ostern essen möchten. Da ging Pilatus zu ihnen heraus und sprach:

Pilate:
Was bringet ihr für Klage wider diesen Menschen?

Evangelist:
Sie antworteten und sprachen zu ihm:

16.b Chorus
Mob:
Wäre dieser nicht ein Übeltäter, wir hätten dir ihn nicht überantwortet.

16.c Recitative
Evangelist:
Da sprach Pilatus zu ihnen:

Pilate:
So nehmet ihr ihn hin und richtet ihn nach eurem Gesetze!

Evangelist:
Da sprachen die Jüden zu ihm:

16.d Chorus
Mob:
Wir dürfen niemand töten.

16.e Recitative
Evangelist:
Auf daß erfüllet würde das Wort Jesu, welches er sagte, da er deutete, welches Todes er sterben würde. Da ging Pilatus wieder hinein in das Richthaus und rief Jesu und sprach zu ihm:

Pilate:
Bist du der Jüden König?

Evangelist:
Jesus antwortete:

Jesus:
Redest du das von dir selbst, oder haben’s dir andere von mir gesagt?

Evangelist:
Pilatus antwortete:

Pilate:
Bin ich ein Jüde? Dein Volk und die Hohenpriester haben dich mir überantwortet; was hast du getan?

Evangelist:
Jesus antwortete:

Jesus:
Mein Reich ist nicht von dieser Welt; wäre mein Reich von dieser Welt, meine Diener würden darob kämpfen, daß ich den Jüden nicht überantwortet würde; aber nun ist mein Reich nicht von dannen.

17. Chorale (38:57)
Ach großer König, groß zu allen Zeiten,
Wie kann ich gnugsam
diese Treu ausbreiten?
Keins Menschen Herze
mag indes ausdenken,
Was dir zu schenken.
Ich kann’s mit meinen Sinnen nicht erreichen,
Womit doch dein Erbarmen zu vergleichen.
Wie kann ich dir denn deine liebestaten im Werk erstatten?

18.a Recitative (40:15)
Evangelist:
Da sprach Pilatus zu ihm:

Pilate:
So bist du dennoch ein König?

Evangelist:
Jesus antwortete:

Jesus:
Du sagst’s, ich bin ein König. Ich bin dazu geboren und in die Welt kommen, daß ich die Wahrheit zeugen soll. Wer aus der Wahrheit ist, der höret meine Stimme.

Evangelist:
Spricht Pilatus zu ihm:

Pilate:
Was ist Wahrheit?

Evangelist:
Und da er das gesaget, ging er wieder hinaus zu den Jüden und spricht zu ihnen:

Pilate:
Ich finde keine Schuld an ihm. Ihr habt aber eine Gewohnheit, daß ich euch einen losgebe; wollt ihr nun, daß ich euch der Jüden König losgebe?

Evangelist:
Da schrieen sie wieder allesamt und
sprachen:

18.b Chorus
Mob:
Nicht diesen, sondern Barrabam!

18.c Recitative
Evangelist:
Barrabas aber war ein Mörder. Da nahm Pilatus Jesum und geißelte ihn.

19. Arioso (Bass) (42:15)
Betrachte, meine Seel,
Mit ängstlichem Vergnügen,
Mit bittrer Lust
Und halb beklemmtem Herzen
Dein höchstes Gut
in Jesu Schmerzen,
Wie dir aus Dornen, so ihn stechen,
Die Himmelsschlüsselblumen blühen!
Du kannst viel süße Frucht
Von seiner Wermut brechen
Drum sieh ohn Unterlaß auf ihn!

20. Aria (Tenor) (44:40)
Erwäge, wie sein
blutgefärbter Rücken
In allen Stücken
Den Himmel gleiche geht,
Daran, nachdem die Wasserwogen
Von unsrer Sündflut sich verzogen
Der allerschönste Regenbogen
Als Gottes Gnadenzeichen steht!

15. Chorale 
Đấng Christ, là Đấng làm cho chúng con được phước,
Không hề làm điều gì sai trái,
Vì chúng con, trong ban đêm
Đã bị bắt như tên cướp,
Bị giải đến trước những người vô tín
Và bị vu khống,
Bị chế nhạo, bị giễu cợt, và bị tát
Như Thánh Kinh đã nói Ngài phải chịu như vậy.

16. Recitative
Evangelist:
Họ giải Ðức Chúa Jesus từ nhà Cai-a-pha đến dinh Tổng Trấn.  Lúc đó là sáng sớm  nhưng chính họ không vào dinh để khỏi bị ô uế hầu có thể ăn Lễ Vượt Qua. Vì thế Phi-lát đi ra gặp họ và hỏi:

Pilate:
Các ngươi cáo buộc người nầy về tội gì?

Evangelist:
Họ trả lời và nói với ông:

16.b Chorus
Mob:
Nếu người nầy không phải là kẻ làm ác, chúng tôi đã không nộp hắn cho quan.

16.c Recitative
Evangelist:
Phi-lát nói với họ:

Pilate:
Các ngươi hãy dẫn người ấy đi và xử theo luật của các ngươi!

Evangelist:
Người Do-thái trả lời ông:

16.d Chorus
Mob:
Chúng tôi không được phép xử tử ai.

16.e Recitative
Evangelist:
Thế là lời Ðức Chúa Jesus đã nói trước về Ngài sẽ chết cách nào có thể được ứng nghiệm. Phi-lát trở vào dinh, sai điệu Ðức Chúa Jesus đến, và hỏi Ngài:

Pilate:
Ngươi có phải là Vua dân Do-thái không?

Evangelist:
Ðức Chúa Jesus trả lời:

Jesus:
Ngươi nói điều nầy là tự ý ngươi, hay đã có ai nói với ngươi về Ta?

Evangelist:
Phi-lát trả lời:

Pilate:
Ta không phải là người Do-thái, phải không? Chính đồng bào ngươi và các trưởng tế đã nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì?

Evangelist:
Ðức Chúa Jesus đáp:

Jesus:
Vương quốc Ta không thuộc về thế giới nầy. Nếu vương quốc Ta thuộc về thế giới nầy, các tôi tớ Ta đã chiến đấu, để Ta không bị nộp vào tay người Do-thái, nhưng vương quốc Ta không thuộc về thế giới nầy.

17. Chorale
Ôi! Vị Vua Vĩ Đại, sự vĩ đại của Ngài tồn tại muôn đời,
Làm thể nào con có thể bày tỏ
lòng trung thành của con?
Không có tâm hồn nào của con người
có thể hình dung một lễ vật,
Xứng hiệp để dâng cho Ngài.
Tâm tư con không thể nghĩ ra điều gì,
Có thể so sánh với ơn thương xót của Ngài.
Con biết làm gì để xứng đáng với nghĩa cử yêu thương của Ngài?

18.a Recitative
Evangelist:
Phi-lát hỏi Ngài:

Pilate:
Vậy ngươi là Vua sao?

Evangelist:
Ðức Chúa Jesus trả lời:

Jesus:
Chính ngươi nói rằng Ta là Vua. Vì lý do đó Ta đã giáng sinh, và vì lý do đó Ta đã đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe lời Ta.

Evangelist:
Phi-lát nói với Ngài:

Pilate:
Chân lý là gì?

Evangelist:
Sau khi nói như vậy, ông trở ra gặp người Do-thái và nói với họ:

Pilate:
Ta không tìm thấy ông ấy có tội gì. 39. Nhưng các ngươi có được thông lệ: cứ vào Lễ Vượt Qua, ta thả cho các ngươi một người. Các ngươi muốn ta thả ‘Vua dân Do-thái’ ra không?

Evangelist:
Họ gào to lại:

18.b Chorus
Mob:
Chớ thả người ấy, nhưng Ba-ra-ba!

18.c Recitative
Evangelist:
Ba-ra-ba là một tên cướp. Bấy giờ Phi-lát truyền đem Ðức Chúa Jesus đi và cho dùng roi dây có móc đánh Ngài.

19. Arioso (Bass)
Hỡi linh hồn ta! Hãy suy niệm
Trong khuây khỏa bồn chồn
Trong niềm vui cay đắng
Và với tấm lòng tan nát giữa niềm đau và an ủi
Vì biết rằng kho tàng quý giá nhất của ngươi
Là sự thống khổ của Chúa Jesus,
Hãy nhìn những ngọn gai đã đâm Ngài,
Đã nở ra những đóa hoa thiên thượng!
Để ngươi hái những trái ngọt ngào
Từ những cay đắng của Ngài,
Hãy nhìn vào Ngài không thôi!

20. Aria (Tenor)
Hãy suy gẫm, về những
vết máu lưu lại phía sau
vương trên mọi vật;
Giống như bầu trời,
là nơi, sau một cơn mưa lũ
những ô dơ tội lỗi của chúng ta bị cuốn trôi,
còn lại chiếc cầu vồng xinh đẹp tột cùng
là biểu tượng ân điển của Đức Chúa Trời!

IV. Chúa Bị Kết Án Và Xử Hình

21.a Recitative (51:50)
Evangelist
Und die Kriegsknechte flochten eine Krone von Dornen und satzten sie auf sein Haupt und legten ihm ein Purpurkleid an und sprachen:

21.b Chorus
Soldiers:
Sei gegrüßet, lieber Jüdenkönig!

21.c Recitative
Evangelist:
Und gaben ihm Backenstreiche. Da ging Pilatus wieder heraus und sprach zu ihnen:

Pilate:
Sehet, ich führe ihn heraus zu euch, daß ihr erkennet, daß ich keine Schuld an ihm finde.

Evangelist:
Also ging Jesus heraus und trug eine Dornenkrone und Purpurkleid. Und er sprach zu ihnen:

Pilate:
Sehet, welch ein Mensch!

Evangelist:
Da ihn die Hohenpriester und die Diener sahen, schrieen sie und sprachen:

21.d Chorus
Priests:
Kreuzige, kreuzige!

21.e Recitative
Evangelist:
Pilatus sprach zu ihnen:

PIlate:
Nehmet ihr ihn hin und kreuziget ihn; denn ich finde keine Schuld an ihm!

Evangelist:
Die Jüden antworteten ihm:

21.f Chorus
Priests:
Wir haben ein Gesetz, und nach dem Gesetz soll er sterben; denn er hat sich selbst zu Gottes Sohn gemacht.

21.g Recitative
Evangelist:
Da Pilatus das Wort hörete, fürchtet’ er sich noch mehr und ging wieder hinein in das Richthaus und spricht zu Jesu:

Pilate:
Von wannen bist du?

Evangelist:
Aber Jesus gab ihm keine Antwort. Da sprach Pilatus zu ihm:

Pilate:
Redest du nicht mit mir? Weißest du nicht, daß ich Macht habe, dich zu kreuzigen, und Macht habe, dich loszugehen?

Evangelist:
Jesus antwortete:

Jesus:
Du hättest keine Macht über mich, wenn sie dir nicht wäre von oben herab gegeben; darum, der mich dir überantwortet hat, der hat’s größ’re Sünde.

Evangelist:
Von dem an trachtete Pilatus, wie er ihn losließe.

22. Chorale (57:15)
Durch dein Gefängnis, Gottes Sohn,
Muß uns die Freiheit kommen;
Dein Kerker ist der Gnadenthron,
Die Freistatt aller Frommen;
Denn gingst du nicht die Knechtschaft ein,
Müßt unsre Knechtschaft ewig sein.

23.a Recitative (58:13)
Evangelist:
Die Jüden aber schrieen und sprachen:

23.b Chorus
Priests:
Lässest du diesen los, so bist du des Kaisers Freund nicht; denn wer sich zum Könige machet, der ist wider den Kaiser.

23.c Recitative
Evangelist:
Da Pilatus das Wort hörete, führete er Jesum heraus und satzte sich auf den Richtstuhl, an der Stätte, die da heißet: Hochpflaster, auf Ebräisch aber: Gabbatha. Es war aber der Rüsttag in Ostern um die sechste Stunde, und er spricht zu den Jüden:

Pilate:
Sehet, das ist euer König!

Evangelist:
Sie schrieen aber:

23.d Chorus
Priests:
Weg, weg mit dem, kreuzige ihn!

23.e Recitative
Evangelist:
Spricht Pilatus zu ihnen:

Pilate:
Soll ich euren König kreuzigen?

Evangelist:
Die Hohenpriester antworteten:

23.f Chorus
Priests
Wir haben keinen König denn den Kaiser.

23.g Recitative
Evangelist:
Da überantwortete er ihn, daß er gekreuziget würde. Sie nahmen aber Jesum und führeten ihn hin. Und er trug sein Kreuz und ging hinaus zur Stätte, die da heißet Schädelstätt, welche heißet auf Ebräisch: Golgatha.

24. Aria (Bass) with Chorus  (1:02:22)
Eilt, ihr angefochtnen Seelen,
Geht aus euren Marterhöhlen,
Eilt (Wohin?) nach Golgatha!
Nehmet an des Glaubens Flügel,
Flieht (Wohin?) zum Kreuzeshügel,
Eure Wohlfahrt blüht allda!

25.a Recitative (1:06:05)
Evangelist:
Allda kreuzigten sie ihn, und mit ihm zween andere zu beiden Seiten, Jesum aber mitten inne. Pilatus aber schrieb eine Überschrift und satzte sie auf das Kreuz, und war geschrieben: “Jesus von Nazareth, der Jüden König.” Diese Überschrift lasen viel Jüden, denn die Stätte war nahe bei der Stadt, da Jesus gekreuziget ist. Und es war geschrieben auf ebräische, griechische und lateinische Sprache. Da sprachen die Hohenpriester der Jüden zu Pilato:

25.b Chorus
Priests:
Schreibe nicht: der Jüden König, sondern daß er gesaget habe: Ich bin der Jüden König.

25c Recitative
Evangelist:
Pilatus antwortet:

Pilate:
Was ich geschrieben habe, das habe ich geschrieben.

26. Chorale (1:08:09)
In meines Herzens Grunde
Dein Nam und Kreuz allein
Funkelt all Zeit und Stunde,
Drauf kann ich fröhlich sein.
Erschein mir in dem Bilde
Zu Trost in meiner Not,
Wie du, Herr Christ, so milde
Dich hast geblut’ zu Tod!

21.a Recitative
Evangelist
Những người lính kết một vương miện bằng gai, đội trên đầu Ngài, và khoác lên mình Ngài một áo choàng màu đỏ điều. Rồi họ đến gần Ngài và nói:

21.b Chorus
Soldiers:
Kính chào Vua dân Do Thái!

21.c Recitative
Evangelist:
Rồi họ đánh vào mặt Ngài. Phi-lát lại trở ra và nói với đám đông:

Pilate:
Nầy, ta đem người ra trước các ngươi, để các ngươi biết rằng ta không tìm thấy người có tội gì.

Evangelist:
Bấy giờ Ðức Chúa Jesus đi ra, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng màu đỏ điều, Phi-lát nói với họ:

Pilate:
Hãy xem, người ấy!

Evangelist:
Khi các trưởng tế và đám thuộc hạ thấy Ngài, họ gào lên:

21.d Chorus
Priests:
Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự! Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự!

21.e Recitative
Evangelist:
Phi-lát nói với họ:

Pilate:
Các ngươi hãy bắt người và đóng đinh, vì ta không tìm thấy người có tội gì!

Evangelist:
Người Do-thái trả lời ông:

21.f Chorus
Priests:
Chúng tôi có luật, và theo luật ấy, hắn phải chết, vì hắn đã tự cho mình là Con Ðức Chúa Trời.

21.g Recitative
Evangelist:
Khi Phi-lát nghe như thế, ông càng sợ hơn. Ông trở vào dinh và hỏi Ðức Chúa Jesus:

Pilate:
Ngươi từ đâu đến?

Evangelist:
Nhưng Ðức Chúa Jesus không trả lời ông. Vì thế Phi-lát nói với Ngài:

Pilate:
Tại sao ngươi không trả lời ta? Ngươi không biết rằng ta có quyền đóng đinh ngươi, và ta cũng có quyền thả ngươi sao?

Evangelist:
Ðức Chúa Jesus đáp:

Jesus:
Ngươi không có quyền gì trên Ta, nếu ngươi không được ban cho từ trên. Về việc nầy, kẻ nộp Ta cho ngươi có tội nặng hơn.

Evangelist:
Từ lúc đó, Phi-lát tìm cách thả Ngài.

22. Chorale
Lạy Con Đức Chúa Trời! Nhờ gông cùm của Ngài,
tự do đã đến với chúng con;
Ngục tù của Ngài là ngôi ân điển,
là nơi trú ẩn cho mọi người trung tín;
Bởi vì nếu Ngài không vào nơi xiềng xích,
xiềng xích của chúng con không bao giờ chấm dứt.

23.a Recitative
Evangelist:
Nhưng người Do-thái la lên:

23.b Chorus
Priests:
Nếu quan thả người nầy, quan không là trung thần của Hoàng Đế. Kẻ nào tự xưng là Vua thì chống nghịch với Hoàng Đế.

23.c Recitative
Evangelist:
Khi Phi-lát nghe những lời ấy, ông cho dẫn Ðức Chúa Jesus ra, rồi ông ngồi vào ghế xử án tại nơi gọi là Tòa Ðá, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ga-ba-tha. Bấy giờ là ngày Chuẩn Bị cho Lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông nói với người Do-thái:

Pilate:
Hãy nhìn Vua các ngươi!

Evangelist:
Họ la lớn:

23.d Chorus
Priests:
Hãy khử hắn đi! Hãy khử hắn đi! Hãy đóng đinh hắn trên thập tự!

23.e Recitative
Evangelist:
Phi-lát hỏi họ:

Pilate:
Ta sẽ đóng đinh Vua các ngươi trên cây thập tự sao?

Evangelist:
Các trưởng tế đáp:

23.f Chorus
Priests
Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Hoàng Đế.

23.g Recitative
Evangelist:
Vậy Phi-lát trao Ngài cho họ để họ đóng đinh Ngài trên cây thập tự. Thế là họ bắt Ðức Chúa Jesus và dẫn đi.  Ngài vác thập tự giá mình đi ra, đến nơi gọi là Ðồi Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha.

24. Aria (Bass) with Chorus
Hỡi tâm hồn đau đớn! Hãy vội vàng
rời khỏi chốn bi thương,
Chạy nhanh lên (Đi đâu?) đến đồi Golgatha!
Hãy chắp cánh của đức tin
Bay (Bay đi đâu?) đến đồi thập tự,
Tại nơi đó năng lực ngươi sẽ được phục hồi!

25.a Recitative
Evangelist:
Tại đó họ đóng đinh Ngài vào cây thập tự. Có hai người khác cũng bị đóng đinh vào cây thập tự như Ngài; một người bên nầy và một người bên kia, còn Ðức Chúa Jesus ở chính giữa. Phi-lát sai người làm một tấm bảng và gắn vào đầu thập tự giá. Tấm bảng ghi rằng: “JESUS NGƯỜI NA-XA-RÉT, VUA DÂN DO-THÁI.” Nhiều người Do-thái đã đọc bảng ấy, vì chỗ Ðức Chúa Jesus chịu đóng đinh ở gần thành, và bảng đó được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng La-tinh, và tiếng Hy-lạp.  Các trưởng tế của dân Do-thái nói với Phi-lát:

25.b Chorus
Priests:
Xin quan đừng viết, ‘Vua dân Do-thái’, nhưng xin hãy viết, ‘Hắn nói, Ta là Vua dân Do-thái.

25c Recitative
Evangelist:
Phi-lát đáp:

Pilate:
Những gì ta đã viết, ta đã viết rồi.

26. Chorale
Tại đáy lòng của con
chỉ có tên Ngài và thập tự của Ngài
Chiếu sáng mỗi phút, mỗi ngày,
nhờ đó con có thể vui tươi.
Hãy khải tỏ cho mắt – trong tấm lòng của con –
để con được an ủi trong khi hoạn nạn.
Làm thế nào Ngài – là Đấng Christ –
phải đổ máu thật nhiều cho đến chết!

V. Chúa Hy Sinh

27.a Recitative (1:09:04)
Evangelist:
Die Kriegsknechte aber, da sie Jesum gekreuziget hatten, nahmen seine Kleider und machten vier Teile, einem jeglichen Kriegesknechte sein Teil, dazu auch den Rock. Der Rock aber war ungenähet, von oben an gewürket durch und durch. Da sprachen sie untereinander:

27.b Chorus
Soldiers:
Lasset uns den nicht zerteilen, sondern darum losen, wes er sein soll.

27.c Recitative
Evangelist:
Auf daß erfüllet würde die Schrift, die da saget: Sie haben meine Kleider unter sich geteilet und haben über meinen Rock das Los geworfen, solches taten die Kriegesknechte. Es stund aber bei dem Kreuze Jesu seine Mutter und seiner Mutter Schwester, Maria, Kleophas Weib, und Maria Magdalena. Da nun Jesus seine Mutter sahe und den Jünger dabei stehen, den er lieb hatte, spricht er zu seiner Mutter:

Jesus:
Weib, siehe, das ist dein Sohn!

Evangelist:
Darnach spricht er zu dem Jünger:

Jesus:
Siehe, das ist deine Mutter!

28. Chorale (1:12:46)
Er nahm alles wohl in acht
In der letzten Stunde,
Seine Mutter noch bedacht,
Setzt ihr ein Vormunde.
O Mensch, mache Richtigkeit,
Gott und Menschen liebe,
Stirb darauf ohn alles Leid,
Und dich nicht betrübe!

29. Recitative (1:13:54)
Evangelist:
Und von Stund an nahm sie der Jünger zu sich. Darnach, als Jesus wußte, daß schon alles vollbracht war, daß die Schrift erfüllet würde, spricht er:

Jesus:
Mich dürstet!

Evangelist:
Da stund ein Gefäße voll Essigs. Sie fülleten aber einen Schwamm mit Essig und legten ihn um einen Isopen, und hielten es ihm dar zum Munde. Da nun Jesus den Essig genommen hatte, sprach er:

Jesus:
Es ist vollbracht!

30. Aria (Alto) (1:15:15)
Es ist vollbracht!
O Trost vor die gekränkten Seelen!
Die Trauernacht
läßt nun die letzte Stunde zählen.
Der Held aus Juda siegt mit Macht
und schließt den Kampf.
Es ist vollbracht!

31. Recitative (1:20:55)
Evangelist:
Und neiget das Haupt und verschied.

32. Aria (Bass) with Chorale (1:21:30)
Mein teurer Heiland, laß dich fragen,
Jesu, der du warest tot,
Da du nunmehr ans Kreuz geschlagen
Und selbst gesagt:
Es ist vollbracht,
Lebest nun ohn Ende,
Bin ich vom Sterben frei gemacht?
In der letzten Todesnot,
Nirgend mich hinwende
Kann ich durch deine Pein und Sterben
Das Himmelreich ererben?
Ist aller Welt Erlösung da?
Als zu dir, der mich versühnt,
O du lieber Herre!
Du kannst vor Schmerzen
zwar nichts sagen;
Gib mir nur, was du verdient,
Doch neigest du das Haupt
Und sprichst stillschweigend: ja.
Mehr ich nicht begehre!

27.a Recitative
Evangelist:
Khi đóng đinh Ðức Chúa Jesus xong, những người lính lấy y phục của Ngài chia làm bốn mảnh, mỗi người lấy một mảnh. Họ cũng lấy chiếc áo dài của Ngài; áo nầy không có đường may, nhưng được dệt liền từ trên xuống dưới. Vì thế, họ với nhau:

27.b Chorus
Soldiers:
Không nên xé áo nầy ra, nhưng chúng ta hãy bắt thăm, ai trúng nấy được..

27.c Recitative
Evangelist:
Vì vậy đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng chia nhau y phục của con; còn áo dài của con, chúng bắt thăm lấy.” Ðó là việc những người lính đã làm. Ðứng tại chân thập tự của Ðức Chúa Jesus có mẹ Ngài, chị của mẹ Ngài, Ma-ry vợ của Cơ-lê-ô-pa, và Ma-ry Mạc-đa-len. Ðức Chúa Jesus thấy mẹ Ngài và môn đồ Ngài thương yêu đang đứng gần bên, Ngài nói với mẹ Ngài:

Jesus:
Mẹ ơi! Đó là con của mẹ.

Evangelist:
Rồi Ngài phán với môn đồ ấy:

Jesus:
Ðó là mẹ của ngươi!

28. Chorale
Ngài suy nghĩ mọi điều
Trong giờ cuối cùng của Ngài,
vẫn quan tâm đến mẹ Ngài,
Ngài trao bà cho một người chăm sóc.
Hỡi loài người! Ngươi cũng hãy hành động chính trực,
yêu mến Chúa và người đồng loại,
để khi chết không có gì hối tiếc,
Đừng để chính mình phải gặp khó khăn!

29. Recitative
Evangelist:
Bắt đầu từ giờ đó, môn đồ ấy rước bà về nhà mình. Sau đó Ðức Chúa Jesus biết mọi sự đã hoàn tất, và để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Ngài nói:

Jesus:
Ta khát!

Evangelist:
Tại đó có một bình đựng đầy giấm. Vậy họ lấy một miếng xốp, thấm đầy giấm, cột vào đầu nhánh cây bài hương, và đưa lên miệng Ngài. 30. Khi Ðức Chúa Jesus nhấm giấm xong, Ngài nói:

Jesus:
Mọi việc đã hoàn tất!

30. Aria (Alto)
Mọi việc đã hoàn tất!
Thật là niềm an ủi cho những linh hồn khổ đau!
Đêm tối của sự than khóc
đã đến giờ phút cuối cùng.
Vị anh hùng của Judah đã chiến thắng với uy quyền
và kết thúc trận chiến.
Mọi việc đã hoàn tất!

31. Recitative
Evangelist:
Rồi Ngài gục đầu và trút linh hồn..

32. Aria (Bass) with Chorale
Đấng Cứu Chuộc yêu quý! Xin cho con hỏi Ngài,
Đức Chúa Jesus, Đấng đã chết
Vì Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự
và Ngài đã phán:
Mọi việc đã hoàn tất,
nhưng bây giờ Ngài sống bất diệt,
Con có được giải phóng khỏi sự chết hay không?
Trong giờ hấp hối,
Con không biết tìm nơi đâu
Con có thể – nhờ đớn đau và sự chết của Ngài –
được thừa hưởng vương quốc thiên đàng hay không?
Sự cứu chuộc cho cả thế giới có phải tại đây chăng?
Nhưng Ngài, là Đấng đã phục hòa con,
Ôi, Ngài – Chúa yêu dấu của con!
Thật Ngài đã chịu đớn đau
không đáp một lời;
Xin ban cho con công ơn của Ngài,
Nhưng Ngài cúi đầu
và nói trong yên lặng: Vâng!
Con còn mong ước gì hơn nữa!

VI. Chúa Được Chôn Cất

33. Recitative (1:26:00)
Evangelist:
Und siehe da, der Vorhang im Tempel zerriß in zwei Stück von oben an bis unten aus. Und die Erde erbebete, und die Felsen zerrissen, und die Gräber täten sich auf, und stunden auf viel Leiber der Heiligen.

34. Arioso (Tenor) (1:26:29)
Mein Herz, indem die ganze Welt
Bei Jesu Leiden gleichfalls leidet,
Die Sonne sich in Trauer kleidet,
Der Vorhang reißt, der Fels zerfällt,
Die Erde bebt, die Gräber spalten,
Weil sie den Schöpfer sehn erkalten,
Was willst du deines Ortes tun?

35. Aria (Soprano) (1:27:16)
Zerfließe, mein Herze,
in Fluten der Zähren
dem Höchsten zu Ehren!
Erzähle der Welt
und dem Himmel die Not:
Dein Jesus ist tot!

36. Recitative (1:34:20)
Evangelist:
Die Jüden aber, dieweil es der Rüsttag war, daß nicht die Leichname am Kreuze blieben den Sabbat über (denn desselbigen Sabbats Tag war sehr groß), baten sie Pilatum, daß ihre Beine gebrochen und sie abgenommen würden. Da kamen die Kriegsknechte und brachen dem ersten die Beine und dem andern, der mit ihm gekreuziget war. Als sie aber zu Jesu kamen, da sie sahen, daß er schon gestorben war, brachen sie ihm die Beine nicht; sondern der Kriegsknechte einer eröffnete seine Seite mit einem Speer, und alsobald ging Blut und Wasser heraus. Und der das gesehen hat, der hat es bezeuget, und sein Zeugnis ist wahr, und derselbige weiß, daß er die Wahrheit saget, auf daß ihr gläubet. Denn solches ist geschehen, auf daß die Schrift erfüllet würde: “Ihr sollet ihm kein Bein zerbrechen.” Und abermal spricht eine andere Schrift: “Sie werden sehen, in welchen sie gestochen haben.”

37. Chorale (1:36:31)
O hilf, Christe, Gottes Sohn,
Durch dein bitter Leiden,
Daß wir dir stets untertan
All Untugend meiden,
Deinen Tod und sein Ursach
Fruchtbarlich bedenken,
Dafür, wiewohl arm und schwach,
Dir Dankopfer schenken!

38. Recitative (1:37:30)
Evangelist:
Darnach bat Pilatum Joseph von Arimathia, der ein Jünger Jesu war (doch heimlich aus Furcht vor den Jüden), daß er möchte abnehmen den Leichnam Jesu. Und Pilatus erlaubete es. Derowegen kam er und nahm den Leichnam Jesu herab. Es kam aber auch Nikodemus, der vormals bei der Nacht zu Jesu kommen war, und brachte Myrrhen und Aloen untereinander, bei hundert Pfunden. Da nahmen sie den Leichnam Jesu und bunden ihn in Leinen Tücher mit Spezereien, wie die Jüden pflegen zu begraben. Es war aber an der Stätte, da er gekreuziget ward, ein Garten, und im Garten ein neu Grab, in welches niemand je geleget war. Daselbst hin legten sie Jesum, um des Rüsttags willen der Jüden, dieweil das Grab nahe war.

39. Chorus (1:39:30)
Ruht wohl, ihr heiligen Gebeine,
Die ich nun weiter nicht beweine,
Ruht wohl
und bringt auch mich zur Ruh!
Das Grab, so euch bestimmet ist
Und ferner keine Not umschließt,
Macht mir den Himmel auf
Und schließt die Hölle zu.

40. Chorale (1:46:26)
Ach Herr, laß dein lieb Engelein
Am letzten End die Seele mein
In Abrahams Schoß tragen,
Den Leib in seim Schlafkämmerlein
Gar sanft ohn eigne Qual und Pein
Ruhn bis am jüngsten Tage!
Alsdenn vom Tod erwecke mich,
Daß meine Augen sehen dich
In aller Freud, o Gottes Sohn,
Mein Heiland und Genadenthron!
Herr Jesu Christ, erhöre mich,
Ich will dich preisen ewiglich!

33. Recitative
Evangelist:
Lúc đó, bức màn trong đền thờ bị xé ra làm hai, từ trên xuống dưới. Ðất rung động, đá nứt, những mồ mả mở ra và thây của nhiều thánh đồ đã an giấc sống lại.

34. Arioso (Tenor)
Tâm hồn ta! Trong khi cả thế giới
đớn đau lúc Chúa chịu đau đớn:
Mặt trời đóng lại khóc than,
Bức màn xé ra, đá run rẩy,
Đất rúng động, phần mộ mở toang,
Bởi vì chúng nhìn Đấng Tạo Hóa đang chết dần trong yên lặng,
Còn tâm hồn ta, ngươi sẽ làm gì?

35. Aria (Soprano)
Tâm hồn ta!  Hãy tan vỡ,
trong những dòng lệ
để tôn ngợi Đấng Tối Cao!
Hãy công bố cho thế giới
và cả cõi trời về nỗi đau thương rằng:
Đức Chúa Jesus của ngươi đã chết!

36. Recitative
Evangelist:
Vì hôm đó là ngày Chuẩn Bị, người Do-thái không muốn thấy thây người chết còn bị treo trên thập tự trong ngày Sa-bát – vì ngày Sa-bát đó rất trọng thể – họ yêu cầu Phi-lát cho đập gãy chân những người bị đóng đinh và gỡ xác xuống.  Vậy quân lính đến đập gãy hai chân người thứ nhất và người kia, hai người cùng bị đóng đinh với Ngài; nhưng khi họ đến chỗ Ðức Chúa Jesus, họ thấy Ngài đã chết rồi, nên họ không đập gãy hai chân Ngài. Thay vào đó, một tên lính lấy giáo đâm vào hông Ngài, ngay lập tức máu và nước chảy ra. Người chứng kiến việc ấy làm chứng, và lời chứng của người ấy là thật, vì người ấy biết mình nói thật, để các ngươi cũng có thể tin. Những việc ấy đã xảy ra để làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chẳng một cái xương nào của Ngài bị gãy.”  Và một chỗ khác trong Kinh Thánh chép: “Họ sẽ nhìn thấy người mình đã đâm.”

37. Chorale
Đấng Cứu Chuộc! Con Đức Chúa Trời, xin giúp chúng con
Qua những đau đớn cay đắng của Ngài,
Khiến chúng con biết đầu phục Chúa
Chấm dứt tất cả những sai phạm.
Xin cân nhắc vì lợi ích của chúng con
Nguyên do sự hy sinh của Ngài,
Nhờ đó chúng con dầu nghèo nàn và yếu đuối,
Có thể dâng lên Ngài lời tạ ơn!

38. Recitative
Evangelist:
Sau các việc đó, Giô-sép người A-ri-ma-thê, một môn đồ thầm kín của Ðức Chúa Jesus (vì sợ người Do-thái), đã đến xin Phi-lát để nhận thi hài Ðức Chúa Jesus đem chôn. Phi-lát chấp thuận. Vì thế Giô-sép đến lấy thi hài Chúa đem đi. Ni-cô-đem, người trước kia đã đến gặp Ðức Chúa Jesus trong ban đêm, cũng đến và mang theo khoảng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Họ lấy thi hài Ðức Chúa Jesus, dùng vải gai mịn và thuốc thơm bó thi hài Ngài lại theo tục khâm liệm của người Do-thái. Gần chỗ Ngài chịu đóng đinh có một cái vườn, trong vườn ấy có một hang mộ còn mới, chưa chôn ai; vì hôm đó là Ngày Chuẩn Bị của người Do-thái và ngôi mộ lại ở gần, nên họ chôn Ðức Chúa Jesus tại đó.

39. Chorus
Thi hài chí thánh – Xin nghỉ an
Vì con không còn khóc nữa,
Xin nghỉ an!
và cũng xin đem đến cho con sự an nghỉ!
Phần mộ của Ngài
là nơi không còn đau đớn nữa,
là nơi mở lối cho con về thiên đàng
và đóng hỏa ngục lại.

40. Chorale
Lạy Chúa!  Xin sai những thiên thần yêu dấu nhỏ bé của Ngài
Trong giờ phút cuối cùng, mang linh hồn con
Đến bên ngực của Áp-ra-ham,
Xin cho thân con được nghỉ trong căn phòng ấm cúng
Không còn chút đau buồn
Cho đến Ngày Phán Xét!
Rồi đánh thức con dậy,
Để mắt con được thấy Ngài
Trong niềm vui gặp Con Đức Chúa Trời,
Là Cứu Chúa và ngôi ân điển của con!
Đức Chúa Jesus Christ! Xin ban cho con điều này
Con muốn ca ngợi Ngài mãi không thôi!

Phước Nguyên
Tháng 3/2015

Thư Viện Tin Lành
www.thuvientinlanh.org

CrownCross_01

Leave a Comment

You must be logged in to post a comment.

©2012-2023 by Thư Viện Tin Lành

Scroll to top