Bảy Đặc Sản Của Đất Hứa – Lúa Mạch
Bảy Đặc Sản Của Đất Hứa – Lúa Mạch
Lời Ban Biên Tập
Mùa Xuân là mùa của cỏ cây. Nhân dịp xuân về Thư Viện Tin Lành xin gởi đến bạn đọc bài viết Bảy Đặc Sản Của Đất Hứa. Trước khi về hưu, Môi-se đã nhắc nhở người Do Thái rằng Đức Chúa Trời sẽ đưa họ vào một xứ trù phú tốt tươi, đó là “xứ có lúa mì, lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu, dầu ô-li-ve và mật” (Phục Truyền 8:8). Bảy sản phẩm được nhắc đến trong câu Kinh Thánh này ngày nay được xem là bảy đặc sản của xứ Ca-na-an. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc một ít kiến thức căn bản về một số thực vật và sản phẩm được nhắc đến trong Kinh Thánh. Bài viết sẽ được đăng làm nhiều kỳ. Mời bạn đọc cùng theo dõi.
Ban Biên Tập
- Lúa Mạch
Lúa mạch (וּשְׂעֹרָ֔ה) là loại đặc sản thứ hai của Đất Hứa được ghi lại trong Phục Truyền 8:8. Ca-na-an là “xứ có lúa mì, lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu, dầu ô-li-ve và mật” (Phục Truyền 8:8).
Tên khoa học của lúa mạch là Hordeum vulgare. Trong Bản Dịch 1925, một số chữ trong nguyên văn Kinh Thánh là “lúa mạch” đã được dịch là “mạch nha” (Lê-vi Ký 27:16; Dân Số Ký 5:15; Ê-sai 28:25, 36:17; Ê-xê-chi-ên 45:13; Giăng 6:9; Khải Huyền 6:6). Lúa mạch có rất nhiều chủng loại. Một trong những chủng loại lúa mạch mà người Việt sống trong thập niên 1980 rất quen thuộc đó là bo-bo. Bo-bo đã được các cơ quan thiện nguyện ngoại quốc giúp để cứu đói cho Việt Nam trong những năm Việt Nam bị mất mùa vào thập niên 1980.
Theo các tài liệu khảo cổ, lúa mạch đã được trồng tại Ai Cập khoảng 5.000 T.C. Những khám phá này phù hợp với ký thuật trong Kinh Thánh cho biết là vào khoảng 1300 T.C., mùa lúa mạch tại Ai Cập đã bị hủy phá do những trận mưa đá mà Đức Chúa Trời đã giáng xuống bởi vì vua Pha-ra-ôn cứng lòng không cho dân Do Thái được tự do (Xuất 9:31). Tại Trung Đông, nông dân thường trồng lúa mạch vài tháng trước khi mùa trồng lúa mì, vì vậy mỗi năm lúa mạch thường được thu hoạch trước, rồi vài tháng sau mới gặt lúa mì. Đây là một trong những lý do khiến sau khi bị Đức Chúa Trời giáng tai họa mưa đá, vua Pha-ra-ôn vẫn cứng lòng. Kinh Thánh cho biết: “trong lúc đó, lúa mạch trổ bông, cây gai có hoa, nên lúa mạch và gai bị dập nát; còn lúa mì và tiểu mạch trổ muộn, nên không bị dập.” (Xuất 9:31-32). Vua Pha-ra-ôn cho rằng mặc dù mùa thu hoạch lúa mạch coi như đã mất nhưng triển vọng thu hoạch lúa mì vẫn còn, bởi vì tình trạng kinh tế của quốc gia Ai Cập không quá bi đát cho nên Pha-ra-ôn vẫn còn kháng cự với Đức Chúa Trời và đã không cho dân Do Thái ra đi.
Kinh Thánh cho biết sau khi người Do Thái vào Đất Hứa, họ đã trồng lúa mạch (Các Quan Xét 7:13). Người Do Thái thu hoạch lúa mạch trước khi kỷ niệm lễ Các Tuần Lễ (Shavuot) (Xuất 34:22). Những ký thuật trong Tân Ước đã gọi lễ Các Tuần Lễ là lễ Ngũ Tuần (Công Vụ 3:1, 20:16; I Cô-rinh-tô 16:8).
Theo niên lịch Do Thái, lễ Các Tuần Lễ được tổ chức 49 ngày sau đêm thứ nhì của lễ Vượt Qua, hay nói một cách khác là 50 ngày sau ngày đầu tiên của lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua vào năm Đức Chúa Jesus hy sinh đã trùng vào ngày thứ Bảy. Do đó lễ Ngũ Tuần – tức là lễ Các Tuần Lễ – diễn ra 50 ngày sau đó trùng vào ngày Chúa Nhật. Vì Đức Chúa Jesus đã sống lại vào ngày thứ nhì của lễ Vượt Qua của năm đó, tức là ngày Chúa Nhật, và sau đó Đức Thánh Linh đã giáng lâm thành lập Hội Thánh vào ngày lễ Ngũ Tuần – cũng trong ngày Chúa Nhật – cho nên sau đó cộng đồng những người tin Đức Chúa Jesus, tức Cơ-đốc giáo, đã thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật, mà không nhóm lại vào ngày Sa-bát theo luật Cựu Ước của Do Thái giáo. Mỗi Chúa Nhật là dịp Hội Thánh họp lại để thờ phượng Đức Chúa Trời, kỷ niệm Đức Chúa Jesus sống lại, và đón mừng sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Hội Thánh.
Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã truyền cho người Do Thái rằng: “Đầu mùa gặt lúa mì, ngươi hãy giữ lễ của các tuần lễ; và cuối năm giữ lễ mùa màng.” (Xuất 34:22). Lễ Các Tuần Lễ diễn ra vào cuối mùa gặt lúa mạch và đầu mùa gặt lúa mì. Giống như ngày Tết của người Việt không phải là một ngày cố định trong Dương Lịch, nhưng thường xảy ra vào tháng Một hay tháng Hai Dương Lịch; lễ Các Tuần Lễ của người Do Thái diễn ra vào khoảng từ ngày 15 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6 Dương Lịch. Đây chính là thời gian mà Cơ-đốc giáo kỷ niệm lễ Ngũ Tuần. Trong khi đó Lễ Lá, hay Lễ Mùa Gặt, luôn được tổ chức sau khi đã gặt xong lúa mì, tức là vào khoảng những tuần lễ cuối của tháng 9 và đầu tháng 10 Dương Lịch.
Kinh Thánh cho biết Na-ô-mi và Ru-tơ từ xứ Mô-áp trở về đến Bết-lê-hem vào đầu mùa gặt lúa mạch: “Na-ô-mi cùng với con dâu là Ru-tơ, người Mô-áp, đã trở về từ nước Mô-áp như vậy. Họ đến Bết-lê-hem vào đầu mùa gặt lúa mạch.” (Ru-tơ 1:22). Vì vậy, Ru-tơ đã có thể mót lúa trong suốt nhiều tháng từ “đầu mùa gặt lúa mạch” (Ru-tơ 1:22) “cho đến cuối mùa gặt lúa mạch và lúa mì” (Ru-tơ 2:23). Na-ô-mi là một người biết suy nghĩ và hành động đúng lúc. Trong hoàn cảnh bị mất mát quá nhiều, khi biết được Chúa đang thăm viếng quê hương của mình, Na-ô-mi đã chọn đúng thời gian để trở về – nhờ đó bà và con dâu đã có thể có lương thực để sống trong thời gian đầu trong khi cả hai chưa có thể gieo gặt mùa màng cho chính mình. Kinh Thánh cũng cho biết khi Bô-ô gặp Ru-tơ, ông đã tặng cho Ru-tơ sáu lường lúa mạch (Ru-tơ 3:15). Tên của làng Bết-lê-hem nơi họ sinh sống có nghĩa là ngôi nhà đầy bánh.
Về công dụng, lúa mạch được dùng làm thức ăn cho người và cho gia súc – như bò, ngựa và lừa. Vào thời của các nhân vật trong Kinh Thánh sống, lúa mạch là thức ăn phổ biến của người nghèo (Ru-tơ 2:17). Đại đa số dân chúng chỉ ăn lúa mạch như là thực phẩm hằng ngày khi có nạn đói. Người Do Thái nấu lúa mạch thành cháo, làm bánh lúa mạch (II Các Vua 4:42; Giăng 6:9), hoặc trộn với những loại ngũ cốc khác để làm bánh ngũ cốc (Ê-xê-chi-ên 4:9), hay làm đường mật như là làm mạch nha của Việt Nam – có lẽ vì lý do này mà Bản Dịch 1925 đã dịch “lúa mạch” thành “mạch nha”. Mạch nha là một sản phẩm được làm ra từ lúa, nhưng không phải là tên của một giống lúa mạch.
Vì người Do Thái phạm tội với Chúa, Tiên tri Ê-xê-chi-ên đã được Đức Chúa Trời truyền cho ông phải nằm một chỗ, ăn bánh bằng lúa mạch trộn với ngũ cốc trong 390 ngày, để làm một ẩn dụ về sự khó khăn sẽ xảy đến, và công bố sứ điệp đó cho dân Do Thái. Đức Chúa Trời truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên mạng lệnh như sau: “Ngươi hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu, đậu lăng, kê và lúa đại mạch, để chúng vào trong một bình, dùng làm bánh ăn. Ngươi nằm nghiêng bao nhiêu ngày thì ăn bánh ấy trong bấy nhiêu ngày, tức là ba trăm chín mươi ngày. Đồ ăn ngươi sẽ ăn cân nặng hai mươi shê-ken mỗi ngày; ngươi phải ăn vào cùng một thì giờ nhất định mỗi ngày. Nước cũng phải được lường, ngươi sẽ uống một phần sáu hin vào cùng một thì giờ nhất định. Ngươi sẽ ăn bánh lúa mạch được nướng bằng phân người ở trước mắt chúng.” – CHÚA phán: “Con dân Y-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh ô uế như vậy tại giữa vòng các nước mà Ta đuổi chúng nó đến.” – Nhưng tôi nói: “Ôi, lạy CHÚA, tôi chưa hề tự làm ô uế mình; từ nhỏ đến giờ tôi không hề ăn con vật chết tự nhiên hay bị thú dữ cắn xé; thịt ô uế cũng không vào miệng tôi.” Ngài phán với tôi: “Này, Ta cho ngươi dùng phân bò thay cho phân người để nướng bánh.” Ngài phán với tôi: “Hỡi con người, này, Ta sẽ phá vỡ nguồn cung cấp thực phẩm trong Giê-ru-sa-lem. Chúng nó sẽ ăn bánh theo cân lượng khẩu phần và sợ hãi; chúng sẽ uống nước bị đong lường và kinh hoàng. Như thế, thực phẩm và nước uống khan hiếm; người ta nhìn nhau kinh hoàng và bị tiêu diệt trong tội lỗi mình.” (Ê-xê-chi-ên 4:9-17 – Bản Dịch Mới). Giống như gạo là thức ăn căn bản của người Việt, tuy nhiên khi nạn đói xảy vì không có đủ gạo ăn người Việt phải ăn gạo trộn với khoai lang, khoai mì, hay bắp khô. Tiên tri Ê-xê-chi-ên cũng đã ăn độn như vậy. Thức ăn của ông là lúa mạch trộn với những loại ngũ cốc khác. Đức Chúa Trời đã truyền cho Tiên tri Ê-xê-chi-ên phải ăn độn trong một thời gian dài như vậy để làm biểu tượng về những khó khăn kéo dài mà người Do Thái sẽ gánh chịu khi họ xem thường tình thương và sự nhẫn nại của Chúa.
Kinh Thánh cho biết mỗi một ngày mà Tiên tri Ê-xê-chi-ên phải nằm một chỗ ăn bánh lúa mạch tương đương với một năm mà người Do Thái đã phạm tội với Chúa: “Ta đã định cho ngươi số ngày bằng với số năm tội lỗi là ba trăm chín mươi ngày, và ngươi sẽ mang tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy.” (Ê-xê-chi-ên 4:5). Tiên tri Ê-xê-chi-ên phải chịu khổ như vậy như là một biểu tượng cưu mang tội lỗi của dân tộc ông, để rồi khi người Do Thái thắc mắc tại sao ông phải nằm nghiêng một bên cách kỳ cục như vậy và ăn bánh khắc khổ trong một thời gian dài, thì Tiên tri Ê-xê-chi-ên có thể giải thích sứ điệp của Chúa cho họ.
Trong khi đa số dân nghèo ăn lúa mạch, dưới thời vua Sa-lô-môn – lúc nước Do Thái hưng thịnh – vua đã lập mười hai vị quan, mỗi người chịu trách nhiệm một tháng trong việc cung cấp lúa mạch và rơm cho hàng chục ngàn con ngựa trong đoàn kỵ binh của vua Sa-lô-môn (I Các Vua 4:26-28). Ngược lại, trong khi vua Đa-vít lưu vong, vua Đa-vít đã nhận tiếp tế lương thực có lúa mạch để làm thức ăn cho vua và đoàn tùy tùng của vua (II Sa-mu-ên 17:28). Kinh Thánh cũng cho biết lúa mạch đã được vua nước Am-môn triều cống cho Giô-tham, vua của vương quốc Giu-đa (II Sử Ký 27:5), và vua Sa-lô-môn đã dùng lúa mạch để trả công cho những chuyên viên xây dựng cung điện và Đền Thờ mà vua Sa-lô-môn đã thuê mướn từ nước Li-ban (II Sử Ký 2:7-10).
Mặc dầu giá của lúa mạch chỉ bằng một phần ba giá của lúa mì (Khải Huyền 6:6), tuy nhiên vào thời Cựu Ước, giá trị của lúa mạch được dùng như là một tiêu chuẩn để trị giá những vật khác. Kinh Thánh cho biết khi một người nào muốn dâng một mảnh đất, vốn là sản nghiệp của tổ tiên, để biệt riêng mảnh đất đó ra thánh cho công việc Chúa, trị giá của miếng đất sẽ được tính theo số lượng lúa mạch được gieo trên mảnh đất đó. Trong những năm về sau, nếu con cháu của người đã dâng miếng đất muốn chuộc miếng đất trở lại thì phải trả thêm 20% trị giá ban đầu của miếng đất (Lê-vi Ký 27:16-21). Lúa mạch cũng có giá trị trao đổi kinh doanh. Tiên tri Ô-sê đã chuộc lại người vợ phản bội của ông khỏi cảnh nô lệ với giá 15 miếng bạc và một hô-me rưỡi lúa mạch (Ô-sê 3:2), tức là vào khoảng 330 lít lúa mạch. Mặc dầu giá trị của lúa mạch không cao như những nông sản khác, tuy nhiên Kinh Thánh cũng cho biết có một số tiên tri giả chỉ vì lợi lộc rất nhỏ, là vài nắm lúa mạch, mà họ dối gạt dân của Chúa, đã thay đổi công lý, và đã làm ô nhục danh của Chúa: “Các ngươi vì vài nắm lúa mạch, vì vài miếng bánh mì, làm ô danh Ta giữa vòng dân Ta. Các ngươi đã nói láo với dân Ta và chúng đã nghe theo để giết người không đáng chết và cho sống người không đáng sống.” (Ê-xê-chi-ên 13:19).
Kinh Thánh cũng cho biết các phép lạ hóa bánh ra nhiều đã xảy ra với loại bánh làm bằng lúa mạch (II Các Vua 4:38-44). Trong những năm nạn đói xảy ra tại Do Thái, có người đã mang đến giúp Tiên tri Ê-li-sê 20 cái bánh lúa mạch. Tiên tri Ê-li-sê đã truyền cho người đầy tớ của ông phát bánh đó cho 100 người ăn, nhưng người đầy tớ của Tiên tri Ê-li-sê đã nói rằng có chừng nầy bánh làm sao phát đủ cho 100 người. Tuy nhiên Tiên tri Ê-li-sê truyền lệnh hãy phát cho họ ăn: “Vì Đức Giê-hô-va có phán như vầy: Người ta sẽ ăn và còn dư lại. Vì vậy, người đặt các bánh đó trước mặt họ; họ ăn, và còn thừa lại, y như lời của Đức Giê-hô-va đã phán” (II Các Vua 4:43-44). Đây là phép lạ đầu tiên của việc hóa bánh ra nhiều được ghi lại trong Kinh Thánh. Trong Tân Ước, có một cậu bé đã mang theo 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá – là phần ăn của một người – đem dâng cho Đức Chúa Jesus. Đức Chúa Jesus đã làm phép lạ, Ngài dùng số lương thực ít ỏi đó chu cấp cho hơn năm ngàn người ăn và còn dư (Giăng 6:1-15). Trong nguyên văn Hebrew chữ לֶ֣חֶם (II Các Vua 4:42) và trong nguyên văn Greek chữ ἄρτους (Giăng 6:9) đều có nghĩa là “cái bánh” hay “ổ bánh”. Trong quá khứ, các bản dịch Việt Ngữ đã dựa vào cách dịch trong các bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh, đã dịch là “ổ bánh”, khiến người đọc hình dung đó là một cái bánh khá lớn, nhưng thật ra những chữ này trong cả hai câu chuyện trong Cựu Ước và Tân Ước đều mô tả những cái bánh nhỏ.
Kinh Thánh cũng cho biết, khi người Do Thái phạm tội, Đức Chúa Trời đã cho phép các dân tộc ngoại quốc bức hiếp họ. Có một lần thủ đô Sa-ma-ri của vương quốc Y-sơ-ra-ên bị quân đội Sy-ri bao vây. Cuộc vây thành kéo dài rất lâu khiến thành Sa-ma-ri có một nạn đói rất lớn. Thức ăn khan hiếm đến nỗi một cái đầu của con lừa bán được 80 siếc-lơ bạc, và một góc tư lường phân bồ câu bán 20 siếc-lơ bạc. Nạn đói kéo dài đến nỗi người ta phải ăn thịt con của mình (II Các Vua 6:24-29). Trước tình cảnh đó, vua của Y-sơ-ra-ên đã sai sứ giả đến nói với Tiên tri Ê-li-sê rằng: Tai họa này là do nơi Chúa, và vua không thể nào tin cậy nơi Chúa được nữa (II Các Vua 6:33). Tuy nhiên Tiên tri Ê-li-sê đã trả lời cho sứ giả của vua như sau: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mai, tại giờ này, nơi cửa thành Sa-ma-ri, một đấu bột lọc sẽ bán một siếc lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc lơ.” (II Các Vua 7:1). Tuy nhiên, vị quan hộ giá của nhà vua đã nói với Tiên tri Ê-li-sê rằng: “Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê đáp: Chính mắt ngươi sẽ thấy, nhưng ngươi không được ăn” (II Các Vua 7:2).
Đêm hôm đó Đức Chúa Trời đã làm cho trại quân Sy-ri náo động. Quân lính Sy-ri nghe tiếng động như thiết xa, kỵ mã, và bộ binh hành quân. Họ tưởng rằng vua Y-sơ-ra-ên đã mướn quân đội Ai Cập và Hê-tít tấn công họ, cho nên quân đội Sy-ri đã tháo chạy ngay trong đêm đó và bỏ lại tất cả những tiếp liệu. Ngày hôm sau, dân Do Thái trong thành ùa ra, chạy vào trại quân Sy-ri lấy thức ăn. Thức ăn nhiều đến nỗi ngày hôm đó “một đấu bột lọc bán một siếc lơ, và hai đấu lúa mạch cũng bán một siếc lơ, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán” (II Các Vua 7:16). Vị quan vô tín lúc đó giữ cổng thành, ông đã chứng kiến điều này xảy ra đúng như lời Đức Giê-hô-va đã phán. Tuy nhiên trong lúc dân chúng bị đói vội vàng từ trong thành ùa ra bên ngoài để lấy thức ăn, họ đã đạp trên vị quan này và vị quan vô tín đó đã chết – ngay vào lúc dân Do Thái được Đức Chúa Trời cứu thoát.
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.
Comments (1)