Barabbas – Phần 11c
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Phần 11 (tiếp theo):
Xa-hắc không đòi hỏi gì hơn, nhưng không biết lão có làm được việc đó hay không? Vì không biết gì hết về những dấu bí mật đó, lão phải lấy những chữ trên tấm thẻ của chính mình để làm mẫu.
Họ chờ cho người giám thị đã đi qua, rồi dưới ánh đèn, Xa-hắc bắt đầu dùng một mãnh đá nhọn cố gắng hết sức mình để vẽ theo các dấu ấy. Bàn tay thiếu kinh nghiệm của lão vẽ lại, những đường nét lạ lùng kia một cách rất khó khăn, nhưng lão đã cố gắng vẽ lại càng giống càng tốt. Nhiều lần họ phải ngưng lại bởi vì có người đi tới, hay ít ra là họ tưởng rằng có người đang đi tới.
Cuối cùng, công việc cũng xong và cả hai đều nhận là rất giống. Họ im lặng nhìn tấm thẻ, nhìn những dấu hiệu lạ lùng mà họ không hiểu, nhưng biết là tượng trưng cho tên của người bị đóng đinh, ám chỉ rằng người đó thuộc về người ấy. Bỗng họ cùng quỳ xuống và dâng lên một lời cầu nguyện nồng nhiệt cho Chúa mình, là Cứu Chúa và là Thượng Đế của mọi người bị hà hiếp.
Từ đàng xa viên giám thị đã thấy họ, bởi vì họ đang quỳ ngay dưới ánh đèn, nhưng vì quá chăm chú vào việc cầu nguyện, họ đã không nhận thấy gì hết. Hắn xông đến và giơ roi đập túi bụi lên người họ. Khi cuối cùng hắn bỏ đi, thì Xa-hắc ngã gục xuống đất. Tên giám thị độc ác kia liền quay gót trở lại dùng roi bắt buộc lão phải đứng lên. Hai người phải loạng choạng tựa người vào nhau để tiếp tục làm việc.
Đây là lần đầu tiên Ba-ra-ba phải chịu đau đớn vì cớ người bị đóng đinh, vì cái ông thầy giảng đạo xanh xao với bộ ngực lép không có lông, đã bị đóng đinh trên thập tự thay lão.
Nhiều năm trôi qua. Ngày nào cũng giống như ngày nào. Họ sẽ không thể phân biệt được ngày này với ngày khác nếu mỗi buổi chiều người ta không dẫn họ đi ngủ chung với hàng trăm tên nô lệ khác, cũng kiệt sức như họ. Điều đó khiến họ biết rằng đêm đã đến rồi. Họ chẳng bao giờ rời khỏi hầm mỏ. Họ bị mất máu trở thành như những bóng ma, sống từ năm này sang năm khác trong cùng một khung cảnh tranh tối tranh sáng dưới đáy âm ty của họ, chỉ được hướng bởi những ngọn đèn cháy leo lét, và thỉnh thoảng đây đó là một đống lửa chụm bằng củi. Một tia nắng nhỏ vạch một đường từ miệng hầm mỏ lọt xuống; từ đó người ta có thể nhìn thấy một cái gì đó có lẽ là về trời. Nhưng họ không thể thấy được gì hết về mặt đất, về cái thế giới xưa kia của họ. Từ cái lỗ đó, người ta thả thức ăn xuống cho họ trong những chiếc thùng dơ dáy. Họ được nuôi như bầy súc vật.
Xa-hắc buồn lắm, Ba-ra-ba không còn cầu nguyện chung với lão nữa. Sau khi muốn có tên Cứu Chúa được khắc trên tấm thẻ của mình, gã đã cầu nguyện được vài lần, rồi ngưng hẳn. Lão càng ngày càng trở thành dữ tợn và kỳ dị, không tài nào hiểu lão cho nổi, Xa-hắc không hiểu gì cả. Việc đó vượt quá tầm hạn hiểu biết của lão. Lão vẫn tiếp tục cầu nguyện, nhưng lúc ấy thì Ba-ra-ba quay lưng đi, dường như không muốn nhìn thấy cả lão nữa. Tuy nhiên Ba-ra-ba tìm thấy một thế đứng để che cho lão nếu có người đi đến, để lão khỏi bị trở ngại trong khi cầu nguyện.
Người ta có thể nói rằng Ba-ra-ba đã muốn giúp cho Xa-hắc trong việc cầu nguyện. Nhưng chính lão thì không cầu nguyện. Tại sao? Nguyên do vì đâu? Xa-hắc không có một ý kiến gì cả. Đối với lão, đó là một điều bí ẩn, cũng như Ba-ra-ba là một con người bí mật. Lão đã tưởng là mình biết rất rõ Ba-ra-ba. Trong cái thế giới ở phía dưới mặt đất, trong chỗ bị nguyền rủa chung này, lão đã tưởng là họ rất gần gũi nhau, nhất là mỗi khi họ cầu nguyện chung với nhau. Rồi bỗng nhiên lão hiểu ra rằng chung qui lão không hiểu gì về Ba-ra-ba hết, hoàn toàn không biết gì cả dầu lão ta vẫn bị xích chung với mình. Thỉnh thoảng, lão có cái cảm tưởng là con người kỳ dị đang ở bên cạnh mình là một con người xa lạ theo một vài phương diện nào đó.
Vậy lão ta là ai?
Họ vẫn còn trò chuyện với nhau, nhưng chẳng bao giờ được như trước nữa. Trong khi họ nói chuyện với nhau, Ba-ra-ba có một thế đứng rất đặc biệt để như xây một nửa người về hướng khác. Xa-hắc không thể nào nhìn được vào đôi mắt lão. Nhưng thật ra, có khi nào lão thấy được chúng chưa, lão đã thấy được chúng một lần nào chưa? Vậy thì thật ra người bạn cùng bị xích chung với lão là ai?
Ba-ra-ba không còn nói đến những điều mình thấy nữa. Người ta rất dễ đoán ra việc đó có ý nghĩa gì đối với Xa-hắc, cái cảm tưởng trống rỗng của lão vì thiếu mất chúng. Lão phải cố gắng tự mình hình dung ra chúng, nhớ lại chúng được bao nhiêu hay bấy nhiêu nhưng đâu có phải là dễ dàng gì. Và cả hai đã không giống nhau. Nhưng làm sao mà giống nhau cho được? Lão thì chẳng bao giờ được ở bên Đấng vốn là tình yêu trọn vẹn. Ánh hào quang đã bao quanh Cứu Chúa chưa bao giờ khiến lão bị chói mắt. Lão chưa bao giờ thấy được Thượng Đế.
Lão phải bằng lòng với việc cố nhớ lại những điều lạ lùng mà một ngày nào đó, đôi mắt Ba-ra-ba đã nhìn thấy.
Lão thích nhất cái buổi sáng lễ Vượt Qua, vị thiên sứ như ngọn lửa lao nhanh từ trời xuống để giải thoát cho Chúa, để cướp Ngài khỏi xứ của kẻ chết… Nếu người ta thấy được cái hình ảnh đó, người ta có thể chắc chắn rằng Chúa đã sống lại, rằng Ngài vẫn sống. Và một ngày gần đây Ngài sẽ trở lại để thiết lập quyền cai trị trên đất như Ngài đã từng hứa rất nhiều lần. Xa-hắc không nghi ngờ gì hết; lão tin chắc là việc đó phải xảy đến. Và lúc ấy, người ta sẽ đưa tất cả những kẻ đang chết mòn ở đây. Phải chính Chúa sẽ đích thân ngồi tại miệng hầm để tiếp nhận những tên nô lệ và tháo hết cùm xích của họ khi họ từ từ leo lên, và sau đó, hết thảy đều sẽ được vào nước Ngài.
Xa-hắc mong mỏi cái ngày đó. Và mỗi lần được phần ăn chết đói, lão ngước mắt nhìn lên trên miệng hang để rình chờ phép lạ. Nhưng người ta không thấy gì hết về cái thế giới trên kia người ta không biết đã có gì xảy ra trện đó. Chắc đã có rất nhiều biến cố quan trọng xảy ra rồi nhưng không ai hay biết gì hết. Tuy nhiên, nếu thật ra có chuyện gì thuộc loại đó xảy ra, nếu thực sự Chúa đã trở lại, thì chắc Ngài đã truyền lệnh đưa họ lên rồi. Chắc chắn là Ngài sẽ không quên họ, những con cái Ngài đang sống dưới âm ty.
Thánh Kinh Báo
Tháng 2&3/1971
(Còn tiếp)