Barabbas – Phần 12a
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Phần 12:
Điều đó cũng thích hợp để bắt ách cả hai vào cùng một cái cày, vì đã từ lâu bị xích chung nhau, họ đã ăn ý nhau như một đôi la cái. Họ đều gầy ốm thảm thương, tóc bị cạo gần sát, nên trở thành đầu đề cho bọn nô lệ khác cười nhạo. Người ta thấy ngay là bọn họ đã từ đâu đến. Nhưng có một người bình phục rất nhanh chóng, vì bẩm chất vẫn mạnh khỏe, nên chỉ trong một thời gian ngắn, họ cũng tạm chu toàn phần của hai người. Viên giám thị không có gì phải phiền lòng. So với những tù nhân cũ của các hầm mỏ, thì họ làm việc cũng khá giỏi.
Về phần họ thì tràn ngập lòng biết ơn khi nghĩ đến việc đã xảy ra. Dầu họ phải chịu khổ cực, phải kéo cày như những con vật từ sáng đến chiều, việc làm bây giờ không còn như trước nữa, chỉ được phơi ra ngoài chỗ thoáng khí để có thể thở thong thả cũng đủ làm nhẹ bớt công việc của họ rồi. dầu mồ hôi có nhể nhãi trên những thân hình gầy gò của họ, dầu người ta vẫn tiếp tục đối xử với họ như những con vật, họ cũng hưởng được ánh nắng mặt trời. Ngọn roi vẫn còn vi vút trên lưng họ như trong hầm mỏ, mà nhất là trên lưng Xa-hắc, là người kém sức hơn, nhưng ít ra dầu sao họ cũng được hồi sinh, được sống như những người khác trên mặt đất chớ không phải cứ sống mãi mãi trong bóng tối. Đối với họ, vẫn có buổi sáng và buổi chiều, ngày và đêm. Họ được chứng kiến những thay đổi đó và lấy làm mừng. Nhưng họ cũng hiểu rằng sự trị vì của Thượng Đế vẫn chưa đến.
Lần lần các nô lệ khác đổi ý về họ, và không còn xem họ như những con vật quái gỡ nữa. Tóc họ mọc trở lại, diện mạo họ cũng giống như mọi người, nên không cho ai để ý nữa. Điều dường như lạ lùng không phải vì họ vốn là những tù phạm trong hầm mỏ nữa, mà là việc họ đã thoát được cái địa ngục ấy.
Thật ra đó là điều đã khiến người ta tò mò trong những ngày đầu, nhưng cũng là một điều khiến người ta thán phục ngoài ý muốn, mà họ cố ý giấu đi. Người ta ráng sức gợi ý để họ kể lại mọi việc xảy ra nhưng không có ai thành công cả. Họ không lắm lời, nhất là không chịu nói gì hết về việc được giải phóng lạ lùng của họ. Điều có hơi kỳ là họ lánh xa ra, chỉ có hai người với nhau mà thôi.
Nhưng không có gì bắt buộc họ phải làm vậy, họ không còn bị xích chung vào nhau nữa, cho nên nếu họ muốn thì có thể trà trộn vào đám bạn bè. Họ không bị bắt buộc phải cứ ăn ngủ bên nhau. Nhưng họ vẫn ở sát bên nhau dường như cả hai vẫn còn bị buộc chặt vào nhau. Điều càng lạ lùng hơn nữa là dường như họ rất e dè đối với nhau, nên cũng ít khi trò chuyện với nhau. Họ sống như bóng với hình, nhưng chung qui lại là những người xa rời nhau.
Đã đành là lúc làm việc họ phải đi cạnh bên nhau. Nhưng vào những lúc rỗi rảnh, không có gì ngăn cấm họ trà trộn với số nô lệ còn lại. Nhưng họ vẫn cảm thấy xa lạ với bọn người kia đến nỗi nếu họ không làm vậy thì không có gì lạ cả. Họ đã quen bị xích vào nhau bằng một sợi dây xiềng mà bây giờ không còn nữa. Khi thức giấc nửa đêm họ nhận ra rằng mình không còn bị cột chung vào nhau nữa, họ cảm thấy một sự lo âu, chờ đến khi biết chắc chắn cả hai vẫn còn nằm bên nhau như trước. Điều đó khiến họ cảm thấy dễ chịu.
Làm sao bảo được rằng Ba-ra-ba cũng cảm thấy như thế? Làm sao nói được rằng mọi sự đã xảy ra như vậy đối với lão? Đó là điều thật lạ. Vì nếu có ai đã được sinh ra để khỏi bị ràng buộc vào bất cứ một người nào khác, thì chính là Ba-ra-ba vậy. Lão đã bị người ta dùng võ lực để làm việc đó, bằng một sợi dây xích sắt. Nhưng bây giờ thì chiếc dây xích không còn nữa, mà lão thì vẫn coi như là nó hãy còn, dường như nếu không có nó thì lão không sống được vậy. Nhưng lẽ dĩ nhiên là lão sẽ kéo thẳng sợi dây đó để gở mình ra…
Xa-hắc thì không làm vậy. Trái lại lão rất đau khổ về sự thay đổi xảy ra giữa họ. Tại sao Ba-ra-ba không còn như trước nữa?
Hai người không còn đề cập đến việc hai người đã thoát được hầm mỏ một cách lạ lùng nữa. Họ chỉ bàn bạc với nhau về chuyện đó trong mấy ngày đầu, nhưng sau đó thì không. Lúc ấy Xa-hắc đã bảo rằng chính con Thượng Đế, Cứu Chúa của thế gian đã giải thoát họ. Phải rồi chắc chắn là vậy rồi… Không còn nghi ngờ gì hết. Nhưng thật ra nếu Xa-hắc đã được Cứu Chúa của mình, là Con Thượng Đế giải thoát, thì Ba-ra-ba không phải đã được chính Xa-hắc giải cứu sao. Sự việc không phải đúng như vậy sao?
Phải, làm sao mà biết chắc được?
Dầu sao thì Ba-ra-ba cũng cám ơn Xa-hắc vì đã cứu mình. Nhưng lão có cảm ơn Thượng Đế không? Phải, chắc là lão phải làm điều đó. Nhưng không có gì chắc chắn cả. Người ta không thể nào chắc chắn được chuyện đó.
Xa-hắc vẫn khổ sở vì chỉ biết quá ít về Ba-ra-ba, người mà lão cảm thấy yêu mến thật tình. Ba-ra-ba không còn cầu nguyện chung với lão nữa như họ đã từng làm một vài lần dưới hầm mỏ, trong cái âm ty kia, đã khiến lão rất khổ tâm. Lão rất muốn họ làm như vậy. Lão không trách gì bạn mình. Lão chỉ không hiểu nỗi mà thôi. Ở Ba-ra-ba có rất nhiều điều không giải thích nổi. Nhưng chính lão đã được thấy Cứu Chúa chết, rồi từ chết sống lại, cũng thấy Ngài được một vòng hào quang thiên đàng bao phủ. Dầu bây giờ thì tất cả những vấn đề ấy không còn được họ bàn cải với nhau nữa…
Xa-hắc khổ sở lắm, nhưng không phải là vì chính lão. Lẽ dĩ nhiên là gương mặt bị xây xát, bị tàn phá phía dưới mái tóc trắng như tuyết của lão đã in các dấu vết của những tàn lửa trong các lò luyện đồng, và tấm thân gầy còm của lão đã bị rất nhiều lằn đòn ngang dọc. Nhưng lão không hề cảm thấy khổ sở vì cớ chính mình. Ta còn có thể nói được lão sung sướng là khác. Nhất là từ ngày Chúa của lão đã hoàn tất cái phép lạ là đưa lão trở lên sống dưới ánh mặt trời, với những bông huệ của đồng ruộng, mà chính Ngài đã rút tỉa được những điều đẹp đẽ để giảng dạy.
Ngài cũng đã thực hiện cùng một phép lạ cho Ba-ra-ba. Nhưng lão này chỉ nhìn cái thế giới mình được thấy bằng đôi mắt lo ngại, và không có ai biết được là lão đang nghĩ gì.
Đó là mối liên hệ giữa họ trong những ngày đầu sau khi lên khỏi hầm mỏ.
Thánh Kinh Báo
Tháng 5,6,7/1971
(Còn tiếp)
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.